Nhận diện những khó khăn, thách thức trong quản lý các vấn đề xã hội tại các khu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay
10:46 19/09/2021
Những khó khăn, thách thức
Tính đến cuối tháng 3/2020, cả nước có 335 khu công nghiệp được thành lập trong đó 260 KCN đã đi vào hoạt động; thu hút được khoảng 9.487 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đăng ký đạt khoảng 195 tỷ USD; khoảng 9.486 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đăng ký đạt khoảng 2.340 nghìn tỷ đồng; có khoảng 3,7 triệu lao động đang làm việc tại các khu công nghiệp, khu kinh tế trên cả nước, trong đó số lao động nữ chiếm gần 60%. Năm 2019, tổng doanh thu của các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp, khu kinh tế đạt khoảng 235 tỷ USD; kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng142 tỷ USD, đóng góp gần 59% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước; đóng góp vào ngân sách nhà nước gần 130 nghìn tỷ đồng. Sự phát triển của các khu công nghiệp không những góp phần tạo ra giá trị công nghiệp, giá trị kim ngạch xuất khẩu, nộp ngân sách Nhà nước mà còn góp phần giải quyết việc làm, thúc đẩy phát triển kinh tế, đô thị hóa nông thôn, tạo thêm nhiều ngành công nghiệp, dịch vụ, hoàn thiện hệ thống hạ tầng, giúp dịch dòng vốn đầu tư (FDI) vào Việt Nam.
Các nghị quyết của Đảng tại các kỳ Đại hội từ năm 1986 đến nay đã hình thành hệ thống các quan điểm nhất quán về phát triển khu công nghiệp; khẳng định vai trò của khu công nghiệp là một trong những nền tảng quan trọng để thực hiện mục tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại như Nghị quyết Đại hội X và XI đã nêu rõ. Từ quan điểm lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đã cụ thể hóa bằng hệ thống chính sách, pháp luật, các chương trình, chiến lược, mục tiêu cụ thể nhằm phát triển các khu công nghiệp, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của người công nhân, lao động tại các khu công nghiệp.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, tại các khu công nghiệp đang tồn tại nhiều vấn đề đáng quan ngại, cần giải quyết thể hiện qua một số vấn đề bất cập như sau:
Thứ nhất, vấn đề lao động, việc làm, thu nhập của người lao động
Về lao động: Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến hết quý I năm 2019, Việt Nam có khoảng 48,8 triệu người lao động (trong đó nữ chiếm 45,6%) và tỷ lệ lao động đã qua đào tạo chiếm 21,9%. Mặt khác, theo kết quả điều tra của Viện Khoa học Môi trường và Xã hội tháng 9-2019, tại 5 tỉnh, thành phố (Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Đà Nẵng, Bình Dương và Đồng Nai), 18 khu công nghiệp với 1.880 lao động cho thấy, tỷ lệ lao động nữ chiếm 58,6% và mức độ chênh lệch về nhóm tuổi lao động khá cao (từ 18 tuổi đến 35 tuổi, chiếm 77,5% và từ 36 tuổi trở lên chiếm 22,5%). Số liệu này cho thấy nhiều vấn đề bất cập đang tồn tại như mất cân bằng giới tính, trình độ lao động có tay nghề còn thấp, nhóm lao động ngoài 35 tuổi có nguy cơ thất nghiệp, mất việc làm cao…, đây là những con số đáng báo động trong bối cảnh bùng nổ của cuộc cách mạng công nghiệp nghiệp lần thứ tư; là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến kết quả chưa hoàn hành mục tiêu trở thành nước công nghiệp, là rào cản cho việc thực hiện mục tiêu mà Văn kiện Đại hội XIII đang đặt ra.
Về việc làm: Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến hết quý I năm 2019, lao động có việc làm đã qua đào tạo từ trình độ “Sơ cấp nghề” trở lên khoảng 12,1 triệu người, chiếm 22,2%; tỷ lệ lao động có việc làm đã qua đào tạo nghề tại các khu là 20,1%, trong đó nữ chiếm 54,9%, nam chiếm 45,1%.
Về thu nhập của người lao động: Tính đến hết quý II năm 2020 thu nhập bình quân của người lao động đạt 5,2 triệu đồng (thu nhập bình quân tháng của lao động nam là 6,1 triệu đồng, lao động nữ là 4,3 triệu đồng)[1]. Thu nhập bình quân của công nhân tại các khu công nghiệp hiện nay chủ yếu đạt mức từ 5 triệu đồng - 7 triệu đồng/tháng (chiếm 81% tổng số lao động). Tuy nhiên, thực tế cho thấy mức lương trên chưa đáp ứng được các nhu cầu của cuộc sống của người lao động.
Thứ hai, vấn đề hôn nhân, gia đình: Sự mất cân đối về số lao động nam, nữ như đã nêu ở trên không chỉ ảnh hưởng tới hiệu quả kinh tế mà còn nảy sinh nhiều phức tạp trong đời sống của công nhân như xu hướng kết hôn muộn, khó tìm kiếm bạn đời, sống thử trước hôn nhân, vấn đề nạo phá thai hay xu hướng làm mẹ đơn thân. Theo kết quả Tổng điều tra dân số 2019, có 69,2% dân số đã có gia đình; nữ giới có xu hướng kết hôn sớm và phổ biến hơn nam (tỷ lệ dân số nam từ 15 tuổi trở lên đã từng kết hôn thấp hơn so với nữ, tương ứng là 73,4% và 81,5%).
Theo số liệu khảo sát của Viện Khoa học Môi trường và Xã hội, có 68,8% số lao động đã kết hôn; tỷ lệ độc thân là 28,4%. Có 52,2% số lao động sống cùng với người thân, gia đình; 61,6% số lao động trả lời buộc phải gửi con ở quê nhà cùng với ông bà. Tỷ lệ người lao động có bàn bạc với vợ/chồng về các vấn đề phát sinh trong cuộc sống là 67,4%. Những con số trên cho thấy công nhân tại các khu công nghiệp hiện nay có xu hướng kết hôn muộn, khó tìm kiếm bạn đời; chất lượng đời sống hôn nhân của người công nhân chưa được đảm bảo khi họ không có điều kiện ở cùng nhau, dành thời gian chăm sóc, giáo dục con cái. Thực tế này không chỉ ảnh hưởng tới chất lượng đời sống tinh thần, tới chất lượng thế hệ tương lai mà còn làm nảy sinh lối sống, hành vi phi văn hóa.
Thứ ba, vấn đề cư trú: Với xấp xỉ 4 triệu lao động, lại thường xuyên di chuyển, thay đổi công việc, nơi ở dẫn tới công tác quản lý cư trú tại các khu công nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Theo số liệu điều tra của Viện Khoa học Môi trường và Xã hội mới chỉ có 58,2% số lao động đăng ký tạm trú khi tới làm việc tại các khu công nghiệp, trong đó chủ yếu do chủ nhà trọ khai báo, đăng ký (42,8%); người lao động chủ động đi đăng ký chỉ đạt 13,2%, doanh nghiệp thực hiện khai báo là 1,9%; khai báo qua mạng là 0,1%. Mặc dù các thủ tịc khai báo tạm trú, tạm vắng đã được đơn giản hóa, rút ngắn thủ tục, quy trình thực hiện; tuy nhiên, ý thức thực hiện của người lao động và các doanh nghiệp chưa cao; một số chủ nà trọ còn lợi dụng sự thiếu hiểu biết của người lao động để thu phí khu thực hiện khai báo hộ. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý cư trú chưa phát huy hiệu quả tại các khu công nghiệp do người lao động chưa có điều kiện, phương tiện cũng như hiểu biết để thực hiện.
Thứ tư, về hoạt động văn hóa - giải trí: Thực tế cho thấy, đời sống văn hóa, giải trí của người công nhâ, lao động tại các khu công nghiệp hiện nay còn rất nghèo nàn và đơn điệu. Khảo sát của Bộ Xây dựng tại 98 khu công nghiệp với hơn 800.000 lao động cho thấy chỉ có 6 khu công nghiệp có nhà văn hóa, 6 khu có nhà tập luyện thể thao[2]. Theo báo cáo nhanh từ 21 công đoàn các khu công nghiệp, khu kinh tế các tỉnh phía Bắc thì hiện có/21 KCN có công trình xã hội, trong đó chỉ có Vĩnh Phúc có 1 nhà văn hoá công nhân, 3 sân cầu lông, 1 sân bóng đá với diện tích 1.700 m2. Đề án “Đầu tư xây dựng các thiết chế của công đoàn tại các khu công nghiệp - khu chế xuất” sau hơn 3 năm thực hiện vẫn chưa đạt được các mục tiêu đề ra; đời sống văn hóa, tinh thần của người lao động còn nghèo nàn; người lao động không có điều kiện thời gian, kinh tế để hưởng thụ các giá trị văn hóa, tinh thần. Trong khi đó các dịch vụ kinh doanh như quán hát, cà phê, giải khát xung quanh khu công nghiệp… chưa được các địa phương quản lý tốt, dẫn đến nhiều biến tướng, làm nảy sinh nhiều tệ nạn như mại dâm, cờ bạc, nghiện hút…
Thứ năm, vấn đề nhà ở cho công nhân: Theo báo cáo của Bộ Xây dựng tính đến đầu năm 2018, số lượng công nhân trong khu công nghiệp có nhu cầu về chỗ ở là 1,2 triệu người, dự kiến năm 2020 là 3 triệu người. Tính đến năm 2018, có 172 dự án với số lượng khoảng 127.000 căn hộ, trong đó đã hoàn thành 100 dự án (chiếm 58% số dự án) với 41.000 căn hộ, phục vụ chỗ ở cho khoảng 330 nghìn người, đáp ứng khoảng 28% số công nhân hiện nay. Số lượng 72 dự án còn lại đang được tiếp tục triển khai với quy mô xây dựng 88.000 căn hộ, đáp ứng cho khoảng 704.000 lao động[3].
Số liệu của Viện Viện Khoa học Môi trường và Xã hội năm 2019 cũng cho thấy, có 58,1% số khu công nghiệp có nhà ở cho lao động; 32,6% số lao động gặp khó khăn do không có nhà để ở và 63,7% số lao động phải mất chi phí cho việc thuê nhà hàng tháng. Người lao động chủ yếu phải thuê nhà dân để ở mà chủ yếu là nhà cấp 4 (chiếm 67,0% số nhà thuê của công nhân), không đảm bảo các điều kiện sinh hoạt, môi trường, nước sạch, an ninh, với diện tích trung bình từ 3-5m2/người. Thực trạng này đòi hỏi các chính sách phát triển nhà ở cho người lao động phải giải quyết được hai vấn đề tối thiểu là sự ổn định, bảo đảm điều kiện sinh hoạt; mức thuê nhà phù hợp với thu nhập của người lao động.
Thứ sáu, vấn đề y tế: Theo báo cáo của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, sau 6 năm thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế toàn dân đã đạt gần 90% dân số; số lượng tham gia bảo hiểm y tế tăng nhanh qua các năm, bình quân mỗi năm tăng 48% từ năm 2015 đến năm 2019 tăng hơn 15 triệu người, đến hết năm 2019 đã có 85,636 triệu người tham gia bảo hiểm y tế; trong đó, diện bao phủ đã tập trung vào các nhóm yếu thế như nhóm người lao động đã tham gia bảo hiểm y tế đạt hơn 90%. Tuy nhiên, theo số liệu của Dự án Hỗ trợ mở rộng bảo vệ sức khỏe xã hội ở Đông Nam Á (ILO-Lux), hơn một nửa số người có thẻ bảo hiểm y tế tham gia nghiên cứu sử dụng các cơ sử y tế không phải cơ sở đăng ký ban đầu, khiến cho việc thụ hưởng đầy đủ quyền lợi bảo hiểm t tế bị hạn chế. Lý do thường được công nhân nhắc tới nhiều nhất là cơ sở y tế đó xa nhà, sau đó là giờ phục vụ bất tiện, thời gian chờ đợi lâu và không hài lòng với các dịch vụ y tế.
Chất lượng dịch vụ y tế tại các khu công nghiệp hiện nay còn thấp. Theo số liệu điều tra của Bộ Xây dựng 2018 đã trích dẫn ở trên, trong 98 khu công nghiệp điều tra chỉ có 3 khu công nghiệp có cơ sở y tế. Còn theo số liệu của Viện Khoa học Môi trường và Xã hội thì chỉ có chỉ 64,6% số khu công nghiệp là có phòng khám bệnh, đáp ứng được 34,9% nhu cầu của người lao động. Tình trạng chung của các cơ sở là nghèo nàn về trang thiết bị, máy móc; nhân sự không đáp ứng về cả số lượng cũng như chuyên môn; chỉ giải quyết một số trường hợp bệnh đơn giản. Do đó, khi xảy ra các tình huống bất thường như dịch bệnh, ngộ độc tập thể, tai nạn lao động tập thể… các cơ sở này khó có thể ứng phó, xử lý tình huống. Ngành y tế các địa phương cũng chưa có cơ chế phối hợp với y tế các doanh nghiệp, khu công nghiệp.
Thứ bảy, vấn đề giáo dục: Theo thống kê, chỉ có 06/16 tỉnh, thành phố có doanh nghiệp trong khu cong nghiệp đầu tư xây dựng trường mầm non phục vụ cho người lao động (23 trường do doanh nghiệp sử dụng lao động trong khu công nghiệp và 5 trường do chủ đầu tư hạ tầng khu công nghiệp)[4]. Theo kết quả khảo sát của Viện Khoa học Môi trường và Xã hội, chỉ có 47,0% số khu công nghiệp điều tra có cơ sở giáo dục mầm non. Số lượng các cơ sở giáo dục tại các khu công nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu gửi con của công nhân; thời gửi trẻ và thời gian làm việc của bố mẹ không phù hợp, dẫn tới công nhân buộc phải cho con theo học tại các trường tư thục với chất lượng giáo dục chưa đảm bảo, học phí cao hơn từ 2-3 lần so với học phí tại các trường công lập.
Tính đến tháng 3/2018 cả nước có 1.954 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, gồm:394 trường cao đẳng (có 46 trường thuộc doanh nghiệp, chiếm tỷ lệ 11,8%); 515 trường trung cấp (82 trường thuộc doanh nghiệp chiếm tỷ lệ 14,8%); 1.045 trung tâm giáo dục nghề nghiệp (có 355 trung tâm thuộc doanh nghiệp, chiếm tỷ lệ 34,3%. Con số các cơ sở giáo dục nghề nghiệp nếu đem so sánh với số lao động được đào tạo nghề cho thấy chất lượng đào tạo của các cơ sở chưa cao, các mục tiêu của các Đề án đào tạo nghề chưa đạt được, cũng như sự tham gia của các doanh nghiệp vào đào tạo nghề cho người lao động chưa cao. Điều này đặt ra các yêu cầu phải thay đổi phương thức đào tạo nghề theo đó phải gắn kết doanh nghiệp – trường học- người lao động để đào tạo phải đi đôi với giải quyết việc làm.
Ngoài những vấn đề nổi cộm nêu trên, thì vấn đề nước sạch, vệ sinh môi trường cũng đáng phải quan tâm, đa số vẫn sử dụng nước ngầm khai thác tại chỗ, hầu hết không sử dụng công nghệ tái sử dụng nước, gây lãng phí và ảnh hưởng đến môi trường khu vực xả thải; Vấn đề tiếp cận thông tin của công nhân còn rất hạn chế do thiếu các cơ sở hạ tầng viễn thông, hạ tầng thông tin; các trung tâm tư vấn, trợ giúp pháp lý… Vấn đề dân tộc, tôn giáo cũng đáng quan ngại, các doanh nghiệp chưa có những ưu tiên trong đào tạo và sử dụng lao động thuộc nhóm đối tượng trên; Vấn đề xung đột lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động vẫn tồn tại dẫn tới các cuộc đình công, ngừng việc tập thể trong đó hầu hết các cuộc đình công đang diễn ra trái pháp luật…
Nguyên nhân của khó khăn, thách thức trong quản lý các vấn đề xã hội tại các khu công nghiệp
Về hệ thống chính sách: các quy định về quản lý nhà nước đối với các vấn đề xã hội trong các khu công nghiệp còn chung chung, chưa có những quy định cụ thể; hệ thống văn bản pháp quy thường xuyên thay đổi (sửa đổi, bổ sung) không ổn định, những vấn đề được đề cập mới chỉ là những vấn đề chung mang tính nguyên tắc mà chưa được xác định cụ thể khi đối chiếu với các quy định của pháp luật chuyên ngành như: Luật Nhà ở, Luật Bảo hiểm Y tế; Luật khám chữa bệnh; Luật Giáo dục; Luật Bảo vệ Môi trường; Luật Cư trú; Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam; Luật nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài ở Việt Nam; Bộ luật Lao động; Luật Tín ngưỡng, tôn giáo… Bên cạnh đó, các văn bản cũng chưa đề cập đến các hoạt động xã hội được thực hiện như thế nào, cách thức và phương pháp tiến hành ra sao nhằm cải thiện đời sống tinh thần của người lao động, mà mới nhấn mạnh vấn đề phát triển nhà ở, công trình thể thao, văn hóa cho người lao động trong các khu công nghiệp nhằm đảm bảo phát triển khu công nghiệp gắn với sự phát triển đồng bộ hạ tầng xã hội, các công trình phúc lợi cho người lao động là chính… Tất cả những vấn đề trên đã tạo ra những lỗ hổng trong quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp, từ đó các địa phương chỉ chú trọng mở rộng các khu công nghiệp mà ít quan tâm tới các vấn đề xây dựng và hoàn thiện hạ tầng cơ sở như nhà ở, điện, nước, môi trường, chính sách thu hút nguồn lực, lao động và quản lý lao động… cũng như các công trình đảm bảo dịch vụ xã hội, dịch vụ thương mại như giáo dục, khám, chữa bệnh, văn hóa, thể thao, mua sắm... phục vụ người lao động trong khu công nghiệp để họ an tâm làm việc.
Về bộ máy tổ chức quản lý: Việc quản lý về xây dựng hạ tầng kết nối đến hàng rào KCN về cơ bản đã được hoàn thành, nhưng tiến độ triển khai xây dựng hạ tầng nói chung, hạ tầng xã hội nói riêng trong các khu công nghiệp còn rất yếu và chậm thực thi, do không bảo đảm các nguồn lực hoặc không thực hiện theo các thiết kế, thi công đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Theo quy định, Ban Quản lý khu công nghiệp là cơ quan đầu mối quản lý nhà nước về khu công nghiệp tại địa phương nhưng thẩm quyền thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước chuyên ngành như quản lý xây dựng, môi trường, lao động, xuất, nhập khẩu, đất đai,… trong khu công nghiệp của Ban Quản lý phải được ủy quyền, hướng dẫn tại pháp luật chuyên ngành. Tuy nhiên, pháp luật chuyên ngành không hướng dẫn ủy quyền cho Ban Quản lý hoặc ủy quyền lại không thống nhất với quy định về khu công nghiệp. Vì thế, việc thực hiện quản lý nhà nước về khu công nghiệp không tập trung tại một đầu mối là các Ban Quản lý. Mặt khác, Ban Quản lý không được giao chức năng, nhiệm vụ về thanh tra. Khi phát hiện vi phạm trong khu công nghiệp, Ban Quản lý không tự thanh tra, xử phạt mà chỉ phối hợp bộ phận thanh tra chuyên ngành để triển khai; trong khi thanh tra chuyên ngành không đủ bộ máy nhân lực để xử lý kịp thời các vi phạm trong khu công nghiệp. Điều này làm giảm vai trò và hiệu quả hoạt động của Ban Quản lý khu công nghiệp.
Về công tác thanh tra, kiểm tra: hầu hết việc kiểm tra, thanh tra các khu công nghiệp hiện nay như thanh tra, kiểm tra về giấy phép hoạt động đầu tư, quy hoạch, xây dựng và về sử dụng người lao động; về chế độ, chính sách của người sử dụng và người lao động cũng như về các điều kiện bảo hộ lao động. Ngoài việc thanh tra, kiểm tra về an ninh, an toàn trật tự do cơ quan chức năng thực hiện, thì hoạt động này đều do thanh tra tỉnh, thanh tra bộ chuyên ngành thực hiện. Trong khi đó, doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trong khu công nghiệp hiện nay lại chịu sự thanh tra, kiểm tra của nhiều cơ quan như Tổng cục Môi trường của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường, Phòng Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường, Cục Cảnh sát môi trường; Cục an toàn vệ sinh thực phẩm, Cục Phòng chống cháy nổ và các cơ quan thanh tra chức năng của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội… Điều đặc biệt là, các cơ quan này có thể triển khai thực hiện mà không cần có sự đồng thuận hay phối hợp của Ban Quản lý Khu công nghiệp, gây ra nhiều áp lực cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh…
Về công tác tuyên truyền pháp luật: Một số doanh nghiệp, người sử dụng lao động chưa tạo điều kiện cho công tác tuyên truyền, nhất là doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, khối FDI; tỷ lệ người lao động được tuyên truyền chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra; đội ngũ cán bộ công đoàn cơ sở chủ yếu là kiêm nhiệm, trình độ tuyên truyền phổ biến pháp luật còn hạn chế; công tác tập hợp người lao động để tuyên truyền pháp luật còn nhiều khó khăn...
Một số giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả quản lý các vấn đề xã hội tại các khu công nghiệp
Để nâng cao hơn nữa hiệu quả của các chính sách xã hội, khắc phục các vấn đề còn tồn tại, cần quan tâm thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, giải pháp chung
Một là, quán triệt một cách triệt để quan điểm, đường lối của Đảng về giai cấp công nhân, phát triển các khu công nghiệp; về các chính sách an sinh xã hội bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội; đoàn kết dân tộc, đoàn kết giai cấp nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu ổn định và phát triển xã hội. Hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật cho công nhân tại các khu công nghiệp theo hướng phù hợp với điều kiện, bối cảnh chung đồng thời phù hợp với đặc điểm riêng của giai cấp công nhân tại các khu công nghiệp, đảm bảo chính sách phải đúng đối tượng.
Hai là, tổ chức bộ máy nhà nước để thực hiện chức năng quản lý theo ngành, theo lãnh thổ một cách hợp lý, tinh gọn, phân cấp, phân quyền triệt để, rõ ràng, tránh chồng chéo, đùn đẩy trách nhiệm. Đội ngũ cán bộ quản lý cần phân công đúng người, đúng việc, đúng chuyên môn, bám sát địa bàn, lĩnh vực quản lý.
Ba là, cần bố trí đầy đủ nguồn lực tài chính đảm bảo cho họat động của bộ máy quản lý, cho công tác tổ chức thực hiện, cho các hoạt động, kế hoạch cụ thể nhằm đưa chính sách vào thực tế cuộc sống.
Bốn là, đối với công tác thanh tra, kiểm tra cần thay đổi phương thức thực hiện, tổ chức thực hiện thanh tra theo chuyên đề, chú trọng công tác đôn đốc, xử lý sau thanh tra. Nâng cao vai trò, chức năng giám sát của các tổ chức chính trị -xã hội, người dân. Quan tâm nhiều hơn nữa tới giải quyết khiếu nại, tố cáo của người lao động, của doanh nghiệp; trong đó, cần tập trung thực hiện tốt công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư và phấn đấu nâng tỷ lệ giải quyết vụ việc khiếu nại.
Năm là, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đến các cấp, các ngành và địa phương, người lao động. Thay đổi, đa dạng hóa phương thức tuyên truyền tăng tính hấp dẫn, tính hiệu quả. Hiện đại hóa hệ thống quản lý nhà nước, ứng dụng các thành tựu của khoa học, công nghệ, thông tin nhằm thống nhất số hóa cơ sở dữ liệu; phát triển hệ thống thông tin quản lý và các ứng dụng; xây dựng cơ chế quản lý, cập nhật, khai thác, chia sẻ dữ liệu và thông tin…
Thứ hai, giải pháp đối với các vấn đề cụ thể
Với vấn đề lao động, việc làm, thu nhập: Cần có quy hoạch phát triển các khu công nghiệp phù hợp theo hướng phát triển bền vững, theo đó ưu tiên các dự án đầu tư có quy mô lớn, các dự án đầu tư FDI, có trình độ công nghệ cao, ưu tiên sử dụng lao động địa phương. Nâng cao chất lượng đào tạo nghề thông qua nâng cao chất lượng công tác dự báo nhu cầu lao động; nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ đào tạo; phân cấp đào tạo cơ bản theo nhu cầu của thị trường; xây dựng mô hình “trường trong doanh nghiệp”, thúc đẩy doanh nghiệp tham gia quy trình đào tạo nghề.
Cần có các quy định cụ thể, rõ ràng, thống nhất về vai trò của doanh nghiệp trong đào tạo nghề, trong sử dụng lao động đã qua đào tạo; sử dụng lao động, bố trí công việc phù hợp cho lao động từ 35 tuổi trở lên. Vấn đề tiền lương cần tuân thủ theo cơ chế của nền kinh tế thị trường, thay đổi quy định mức lương tối thiểu theo hướng linh hoạt cũng như theo trình độ tay nghề, mức độ cống hiến với công việc.
Về vấn đề cư trú: Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động quần chúng tham gia thực hiện quản lý cư trú đối với người lao động làm việc tại các khu công nghiệp. Nâng cao nhận thức của người lao động, doanh nghiệp về vai trò của đăng ký tạm trú, tạm vắng trong công tác quản lý cư trú của Nhà nước, trong đảm bảo an ninh, trật tự địa phương. Đầu tư trang thiết bị, phương tiện, ứng dụng khoa học - kỹ thuật, công nghệ thông tin trong đăng ký, quản lý cư trú, xây dựng và triển khai các phần mềm, hệ thống lưu trữ thông tin và đầu tư cơ sở vật chất, trang bị phương tiện để xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về cư trú đảm bảo thống nhất, an toàn, có cơ chế phối hợp chia sẻ thông tin giữa các cơ quan quản lý nhà nước.
Về vấn đề nhà ở, giáo dục, y tế: Trong quy hoạch các khu công nghiệp cần bố trí quỹ đất để xây dựng các cơ sở hạ tầng dịch vụ hoặc nghiên cứu giải pháp tăng tính kết nối với các khu vực đô thị xung quanh để đảm bảo cuộc sống cho người lao động. Cần đưa ra các quy định cụ thể về việc bắt buộc các doanh nghiệp xây dựng các công trình y tế, giáo dục, nhà ở theo quy mô đầu tư, quy mô lao động..., nâng cao trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp. Có các cơ chế khuyến khích, thu hút các nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước, xã hội hóa xây dựng, phát triển dịch vụ y tế, giáo dục, nhà ở cho công nhân, nâng cao nguồn lực đầu tư.
Về đời sống hôn nhân, văn hóa giải trí của người lao động: Đẩy mạnh việc thực hiện “Đề án Đầu tư xây dựng các thiết chế của công đoàn tại các khu công nghiệp - khu chế xuất” nhằm xây dựng các công trình văn hóa, thể thao, giải trí cho người lao động. Cần thay đổi tư duy của doanh nghiệp trong việc tạo điều kiện cho người lao động có thời gian, điều kiện để giao lưu, tìm hiểu tiến tới hôn nhân, xây dựng, chăm sóc gia đình; nghỉ ngơi, giải trí để tái sản xuất sức lao động, hưởng thụ các giá trị văn hóa. Tăng cường các hoạt động tuyên truyền, giáo dục sức khỏe sinh sản, pháp luật về hôn nhân gia đình cho người lao động. Đẩy mạnh hoạt động, nâng cao vai trò của công đoàn cơ sở trong việc nâng cao chất lượng đời sống văn hóa, tinh thần, đời sống hôn nhân, gia đình; công tác tuyên truyền, hỗ trợ công nhân tiếp cận thông tin, kiến thức, kỹ năng sống và xây dựng gia đình hạnh phúc; đa dạng hóa các hoạt động văn hóa, giải trí, thể thao để thu hút người lao động, tránh xa các hoạt động thiếu lành mạnh, các tệ nạn xã hội...
Với một số vấn đề khác: Cần có các chính sách hỗ trợ tìm kiếm việc làm, ưu đãi về nhà ở cho các đối tượng lao động thuộc nhóm yếu thế, như lao động di cư, lao động là người dân tộc thiểu số... Hệ thống chính sách cần đảm bảo quyền lợi cho người lao động cũng như người sử dụng lao động, hài hòa lợi ích nhóm, giảm thiểu mâu thuẫn, xung đột lợi ích. Nâng cao vai trò quản lý trực tiếp của ban quản lý các khu công nghiệp bằng việc quy định cụ thể chức năng, quyền hạn, cơ chế ủy quyền cũng như nâng cao hiệu lực thanh tra, kiểm tra, giám sát thông qua bổ sung chức năng xử lý sai phạm của Ban quản lý.
[1] Tổng cục TK – Báo cáo Tình hình Lao động việc làm Quý II và 6 tháng đầu năm 2020.
[2] Báo cáo về tình hình triển khai thực hiện các chính sách, chương trình phát triển Nhà ở xã hội của Bộ Xây dựng ngày 07/12/2016 tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc về nhà ở xã hội.
[3] Báo cáo tổng hợp về phát triển hạ tầng xã hội khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp 2019, Bộ KH&ĐT
[4] Báo cáo tổng hợp về phát triển hạ tầng xã hội khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp 2019, Bộ KH&ĐT
(Nguồn: Bài viết được đăng trên Ấn phẩm Tạp chí Cộng sản số 953, tháng 11-2020)