Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu: Nỗ lực vì mục tiêu chung của cộng đồng quốc tế
09:13 06/06/2022
Biến đổi khí hậu - thách thức lớn đối với sự tồn vong của nhân loại
Biến đổi khí hậu có tác động lớn đến môi trường sống cũng như sinh kế của con người, do đó trở thành thách thức nghiêm trọng đối với sự tồn vong của nhân loại. Các lĩnh vực, khu vực chính bị tác động của biến đổi khí hậu bao gồm: tài nguyên nước ngọt, hệ sinh thái, sản xuất lương thực và lâm nghiệp, vùng ven biển và vùng đất thấp, công nghiệp và khu cư dân, sức khỏe con người…
Những thay đổi trong điều kiện khí hậu và lượng khí carbon - dioxide tăng nhanh làm suy giảm nguồn tài nguyên nước ngọt, các khu vực bị ảnh hưởng bởi hạn hán kéo dài. Nhiều hệ sinh thái lớn được dự báo sẽ không thể chống chịu được các biến động khi nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng lên quá 3°C. Sản xuất nông nghiệp và lâm nghiệp sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng và suy giảm do thiếu nước ngọt và các điều kiện khí hậu thay đổi tác động đến cây trồng. Nhiều khu vực ven biển và vùng đất thấp trên thế giới bị chìm dần khi nước biển dâng và sẽ biến mất trong tương lai không xa. Nhiều ngành công nghiệp, kết cấu hạ tầng, các khu dân cư sẽ bị tổn thương do tác động của biến đổi khí hậu, nhất là ở vùng ven biển, ven sông, những vùng dễ bị tác động bởi các hiện tượng thời tiết cực đoan, các khu vực có nền kinh tế phụ thuộc vào điều kiện khí hậu, chẳng hạn như các ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản, ngành sử dụng nhiều nước ngọt, ngành du lịch... Sức khỏe con người cũng sẽ chịu ảnh hưởng nghiêm trọng do các hiện tượng nắng nóng, lũ lụt và các dịch bệnh phát sinh. Tất cả các yếu tố trên sẽ dẫn đến thiệt hại trực tiếp về kinh tế, như mùa màng thất bát, giá cả thực phẩm và nhiên liệu tăng, lợi nhuận từ các ngành du lịch và công nghiệp giảm sút đáng kể. Chiến tranh, xung đột cũng có thể sẽ bắt nguồn từ các khó khăn này.
Đối với Việt Nam, theo Báo cáo “Biến đổi khí hậu ở Việt Nam: Tác động và thích ứng”, với kịch bản nhiệt độ tăng lên và nước biển dâng thêm 1m, Việt Nam sẽ có thể bị mất 5% diện tích đất liền tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Cũng theo nghiên cứu này, khi nhiệt độ toàn cầu tăng lên 1,5ºC và 2ºC thì thiệt hại trực tiếp đối với GDP của Việt Nam sẽ tương ứng là 4,5% và 6,7%. Mực nước biển dâng cũng dẫn tới sự sụt giảm diện tích trồng lúa gạo, như mực nước biển dâng là 60cm có thể dẫn đến sự sụt giảm diện tích trồng lúa lên tới hơn 50% tại một số địa phương của Việt Nam, đe dọa an ninh lương thực của đất nước. Biến đổi khí hậu thực sự là một thách thức to lớn, nghiêm trọng đối với cộng đồng quốc tế nói chung và Việt Nam nói riêng.
Nỗ lực của cộng đồng quốc tế
Những thách thức trên chính là lý do trong những thập niên gần đây, cộng đồng quốc tế ngày càng nhận thức rõ hơn và đã có nhiều nỗ lực để ứng phó với biến đổi khí hậu. Ngay từ thập niên 70 của thế kỷ XX, các nghiên cứu của Bộ Năng lượng Mỹ đã đưa ra những cảnh báo ban đầu về sự nóng lên toàn cầu. Năm 1979, Hội nghị khí hậu thế giới lần đầu tiên đã xem biến đổi khí hậu là vấn đề nghiêm trọng và kêu gọi các chính phủ nhận rõ và ngăn chặn biến đổi khí hậu do con người gây ra. Các sự kiện trong những năm tiếp theo, như: Năm 1987 được ghi nhận là năm nóng nhất; năm 1991, núi lửa phun trào ở Philippines… khiến cộng đồng quốc tế ngày càng chú ý hơn đến vấn đề biến đổi khí hậu. Năm 1992, tại Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất Rio de Janeiro, 154 quốc gia đã ký kết Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu, cam kết ngăn ngừa sự nóng lên toàn cầu do hiệu ứng nhà kính và đặt ra mục tiêu trước năm 2000 phải giảm khí thải của các nước công nghiệp phát triển trở về mức năm 1990. Tiếp đó, kể từ năm 1995, Hội nghị các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP) lần lượt được tổ chức hằng năm, đến nay đã diễn ra 26 hội nghị, trong đó đáng chú ý có những hội nghị quan trọng như COP3 (Kyoto, Nhật Bản năm 1997) đã thông qua Nghị định thư Kyoto, đưa ra các cam kết cao hơn về giảm khí thải nhà kính; COP21 (Paris, Pháp năm 2015) thông qua Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu thay thế Nghị định thư Kyoto, tiếp tục đưa ra các cam kết và hành động cao hơn nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu.
Sau một năm bị trì hoãn do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, tại Hội nghị mới nhất COP26 (tháng 11-2021 tại Glasgow, Anh), 197 quốc gia tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu đã thông qua Hiệp ước khí hậu Glasgow, khẳng định quyết tâm theo đuổi các nỗ lực để đạt mục tiêu kiềm chế nhiệt độ toàn cầu tăng ở mức 1,5 độ C; đồng thời, lần đầu tiên kêu gọi thế giới giảm dần điện, than, không sử dụng công nghệ thu giữ carbon và trợ cấp nhiên liệu hóa thạch không hiệu quả. Tại COP26, thế giới cũng chứng kiến nhiều cam kết mạnh mẽ: 137 quốc gia nhất trí hành động để ngăn chặn việc phá rừng cũng như xói mòn đất vào năm 2030; gần 90 quốc gia cam kết cắt giảm 30% lượng phát thải khí methane gây hiệu ứng nhà kính vào năm 2030 so với mức năm 2020; hơn 20 quốc gia cam kết đến năm 2035 toàn bộ các ô tô và xe tải được sử dụng sẽ là xe không khí thải; hơn 40 quốc gia cam kết dần loại bỏ điện than; một loạt quốc gia sẽ đặt ra thời hạn chấm dứt sử dụng dầu mỏ và khí đốt, đồng thời ngừng cấp giấy phép thăm dò mới; Mỹ và Trung Quốc - hai quốc gia phát thải lớn nhất thế giới - cũng ra tuyên bố chung cam kết sẽ xây dựng các chiến lược dài hạn nhằm đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0. COP26 cũng chứng kiến cam kết của 450 tổ chức tài chính, quản lý tổng số tài sản trị giá 130 nghìn tỷ USD, tương đương 40% tài sản tư nhân toàn cầu trong việc sử dụng vốn đầu tư hỗ trợ công nghệ sạch như năng lượng tái tạo và ngừng tài trợ cho các ngành công nghiệp sử dụng nhiên liệu hóa thạch.
Kết quả của Hội nghị COP26 là tích cực, song vẫn còn nhiều khó khăn và nhiều việc phải làm. Trước hết, việc đạt được Hiệp ước khí hậu Glasgow là kết quả của một sự thỏa hiệp khó khăn giữa các nước khi hội nghị phải kéo dài thêm một ngày mới có thể đạt được thỏa thuận. Hơn nữa, mặc dù nhiều quốc gia đã nhất trí với các cam kết toàn cầu nhằm tránh những tác động của biến đổi khí hậu, song trên thực tế, việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch và lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính vẫn tiếp tục tăng. Việc thực hiện các cam kết hiện cũng hoàn toàn phụ thuộc vào hành động thực tế của các nước, song chưa có một cơ chế nào để giám sát, kiểm tra việc này. Cuối cùng, biến đổi khí hậu là vấn đề toàn cầu, một khi các nước trên thế giới, nhất là các nước lớn còn chưa đạt được nhận thức chung trong vấn đề này thì cộng đồng quốc tế sẽ khó có thể đi tới hành động chung. Mới đây nhất, một dự thảo nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc về vấn đề biến đổi khí hậu đã bị phủ quyết là minh chứng rõ nhất cho thấy sự khác biệt về quan điểm của các nước trong vấn đề biến đổi khí hậu.
Sự tham gia tích cực, cam kết mạnh mẽ và trách nhiệm cao của Việt Nam trong ứng phó với biến đổi khí hậu
Nhận thức được mức độ nghiêm trọng của biến đổi khí hậu, Việt Nam đã sớm tham gia các cơ chế, thỏa thuận liên quan, như Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu, Nghị định thư Kyoto, Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu, đã ban hành nhiều nghị quyết, chính sách, pháp luật, chương trình, kế hoạch… liên quan đến ứng phó với biến đổi khí hậu. Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 3-6-2013, Hội nghị Trung ương khóa XI, “Về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường” đã nêu một số quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong ứng phó với biến đổi khí hậu, đó là:
Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường là những vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có tầm ảnh hưởng lớn, quan hệ, tác động qua lại, quyết định sự phát triển bền vững của đất nước; là cơ sở, tiền đề cho hoạch định đường lối, chính sách phát triển khoa học - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và an sinh xã hội. Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cả hệ thống chính trị; là trách nhiệm và nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư, trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự tham gia, giám sát của toàn xã hội.
Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường phải trên cơ sở phương thức quản lý tổng hợp và thống nhất, liên ngành, liên vùng. Vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa bảo đảm lợi ích lâu dài, trong đó lợi ích lâu dài là cơ bản. Vừa bảo đảm toàn diện, vừa phải có trọng tâm, trọng điểm; có bước đi phù hợp trong từng giai đoạn; dựa vào nội lực là chính, đồng thời phát huy hiệu quả nguồn lực hỗ trợ và kinh nghiệm quốc tế.
Biến đổi khí hậu là vấn đề toàn cầu, là thách thức nghiêm trọng đối với toàn nhân loại trong thế kỷ XXI. Ứng phó với biến đổi khí hậu phải được đặt trong mối quan hệ toàn cầu; không chỉ là thách thức mà còn tạo cơ hội thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng phát triển bền vững. Phải tiến hành đồng thời thích ứng và giảm nhẹ, trong đó thích ứng với biến đổi khí hậu, chủ động phòng, tránh thiên tai là trọng tâm.
Tài nguyên là tài sản quốc gia, là nguồn lực, nguồn vốn tự nhiên đặc biệt quan trọng để phát triển đất nước. Tài nguyên phải được đánh giá đầy đủ các giá trị, định giá, hạch toán trong nền kinh tế, được quản lý, bảo vệ chặt chẽ; khai thác, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả và bền vững, gắn với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh tài nguyên. Chú trọng phát triển, sử dụng năng lượng tái tạo, vật liệu mới, tái chế.
Môi trường là vấn đề toàn cầu. Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một nội dung cơ bản của phát triển bền vững. Tăng cường bảo vệ môi trường phải theo phương châm ứng xử hài hòa với thiên nhiên, theo quy luật tự nhiên, phòng ngừa là chính; kết hợp kiểm soát, khắc phục ô nhiễm, cải thiện môi trường, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; lấy bảo vệ sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. Đầu tư cho bảo vệ môi trường là đầu tư cho phát triển bền vững.
Trên cơ sở đường lối, chủ trương của Đảng về chủ động ứng phó biến đổi khí hậu gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội theo hướng phát triển bền vững, Quốc hội, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản nhằm cụ thể hóa chủ trương của Đảng. Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên đề cập tới nội dung ứng phó với biến đổi khí hậu trong Hiến pháp. Quốc hội các khóa gần đây cũng đã thông qua nhiều luật liên quan, như Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004, Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả năm 2010, Luật Tài nguyên nước năm 2012, Luật Phòng, chống thiên tai năm 2013… Kể từ năm 2007 đến năm 2017, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 109 văn bản, trong đó có 2 nghị quyết, 23 nghị định, 82 quyết định và 2 chỉ thị về lĩnh vực ứng phó với biến đổi khí hậu, trong đó có Quyết định 2053/QĐ-TTg, ngày 28-10-2016, “Về việc ban hành kế hoạch thực hiện Thỏa thuận Paris về khí hậu”; Nghị quyết số 120/NQ-CP, ngày 17-11-2017, “Về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu”… Các bộ, ban, ngành, địa phương cũng đã cụ thể hóa, triển khai nhiều chương trình hành động nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách và thực hiện công tác ứng phó với biến đổi khí hậu theo chức năng, nhiệm vụ, địa bàn quản lý. Như vậy, nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị, của mỗi cơ quan, ban, ngành, địa phương về ứng phó với biến đổi khí hậu đang ngày càng được nâng cao.
Tại Hội nghị COP26, đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam do Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dẫn đầu đã tham gia hội nghị, đạt kết quả thành công tốt đẹp. Việt Nam đưa ra cam kết xây dựng và triển khai các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính để đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Sự tham gia tích cực của Việt Nam tại Hội nghị COP26 và cam kết mạnh mẽ ứng phó với biến đổi khí hậu đã nhận được sự hoan nghênh của cộng đồng quốc tế, thể hiện tầm nhìn của Chính phủ Việt Nam về định hướng phát triển kinh tế - xã hội đất nước trong giai đoạn mới gắn với các cam kết ứng phó với biến đổi khí hậu. Đồng thời, thể hiện trách nhiệm cao của Việt Nam trước cộng đồng quốc tế, cùng đóng góp vào các mục tiêu chung của nhân loại, phù hợp xu thế phát triển chung của thế giới.
Tuy nhiên, ứng phó với biến đổi khí hậu, nhất là đối với các nước đang phát triển, có nguồn lực hạn chế là vấn đề khó khăn, phức tạp, đòi hỏi nỗ lực của quốc gia cũng như sự trợ giúp hiệu quả của cộng đồng quốc tế. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, thách thức lớn nhất của Việt Nam trong ứng phó với biến đổi khí hậu hiện nay là việc huy động và duy trì sự tham gia của toàn hệ thống chính trị, với quyết tâm kiên định thực hiện lộ trình, các cam kết đã đề ra. Bên cạnh đó, là một nước đang phát triển, Việt Nam cũng gặp những khó khăn nhất định về tài chính khi nguồn lực trong nước còn phải dành để đầu tư cho các lĩnh vực cấp thiết khác; khó khăn trong việc tìm kiếm, tiếp cận các nguồn lực tài chính bên ngoài. Ngoài ra, công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực của Việt Nam còn nhiều hạn chế; nguồn nhân lực trong nước phần lớn còn gặp khó khăn trong việc nghiên cứu cũng như vận hành các công nghệ, quy trình sản xuất tiên tiến phục vụ ứng phó với biến đổi khí hậu. Do đó, trong thời gian tới, để ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu, thực hiện đúng các cam kết đã đưa ra, cần tập trung vào làm tốt một số nhóm giải pháp:
Một là, về công tác tuyên truyền, cần tiếp tục tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội về vấn đề biến đổi khí hậu, hình thành quyết tâm và hành động mạnh mẽ trong ứng phó với biến đổi khí hậu. Mỗi cấp, mỗi ngành, địa phương cần có sự quan tâm chỉ đạo, tích cực lồng ghép vấn đề ứng phó với biến đổi khí hậu vào các chương trình, kế hoạch cụ thể theo chức năng, nhiệm vụ, địa bàn quản lý để thực hiện tốt, vừa góp phần phát triển kinh tế - xã hội, vừa hướng tới các mục tiêu ứng phó với biến đổi khí hậu. Chẳng hạn, cần tăng cường hơn nữa các nội dung về biến đổi khí hậu trong chương trình học ở các cấp, thúc đẩy nghiên cứu, ứng dụng khoa học trong lĩnh vực ứng phó với biến đổi khí hậu ở các cơ sở đào tạo, nghiên cứu, qua đó tạo sự chuyển biến trong nhận thức, hành động, nhất là của giới trẻ đối với vấn đề này.
Hai là, về công tác hoạch định và thực thi chính sách, các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ cần rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách liên quan đến ứng phó biến đổi khí hậu, ưu tiên sớm ban hành nghị định về giảm phát thải khí nhà kính, bảo vệ tầng ozone; ban hành danh mục các cơ sở phải thực hiện kiểm kê phát thải khí nhà kính; xây dựng và triển khai đề án phát triển thị trường carbon. Việc hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về ứng phó với biến đổi khí hậu cần theo hướng đồng bộ với chiến lược tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, tái cấu trúc nền kinh tế, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước. Ngoài ra, ứng phó với biến đổi khí hậu vừa có tính cấp bách, vừa có tính lâu dài, phức tạp và liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực, địa phương, vì thế các cấp, các ngành, địa phương, nhất là các ngành như năng lượng, giao thông, công nghiệp, nông lâm nghiệp, thủy sản, du lịch, tài nguyên và môi trường, các địa phương có địa hình thấp, vùng đồng bằng ven biển… cần tích cực tham vấn, trao đổi, phối hợp trong hoạch định và thực thi chính sách, từ đó đề ra chính sách đúng đắn và thực thi chính sách hiệu quả nhất.
Ba là, về công tác hợp tác quốc tế, Việt Nam cần tích cực, chủ động tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ứng phó với biến đổi khí hậu. Tăng cường hợp tác, học tập kinh nghiệm của các nước trong các vấn đề cụ thể, như ứng phó với nước biển dâng; vấn đề quy hoạch, tái cấu trúc nền kinh tế và các ngành sản xuất hướng tới giảm phát khí thải; vấn đề phát triển thị trường mua bán khí thải carbon mà một số nước đã thực hiện. Tăng cường hợp tác chia sẻ, sử dụng các dữ liệu quan trắc môi trường, tài nguyên nước sông Hồng, sông Mekong với các quốc gia liên quan. Đặc biệt, cần tích cực tham gia các diễn đàn, hội nghị quốc tế về biến đổi khí hậu, tăng cường hợp tác trong các khuôn khổ song phương và đa phương, qua đó tranh thủ các nguồn lực quốc tế để phục vụ công tác ứng phó với biến đổi khí hậu.
Ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu, thực hiện đúng các cam kết quốc tế không chỉ bảo đảm cho sự phát triển bền vững của đất nước, mà còn là đóng góp của Việt Nam đối với sự phát triển chung của nhân loại, vì cuộc sống tốt đẹp của chúng ta và các thế hệ mai sau./.