Tăng trưởng xanh: Chuyển biến từ nhận thức tới hành động - Nhìn từ thực tiễn Quảng Ninh

12:00 27/12/2023

Thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, tỉnh Quảng Ninh đã tích cực, chủ động xây dựng kế hoạch và từng bước triển khai thực hiện Kế hoạch hành động tăng trưởng xanh. Với tư duy đổi mới, dám nghĩ, dám làm, sau hơn 10 năm kiên trì mục tiêu tăng trưởng xanh, tỉnh Quảng Ninh đã đạt được một số kết quả. Tuy nhiên, để tạo đà cho địa phương phát triển nhanh, bền vững, tiếp tục là một trong những cực tăng trưởng kinh tế, có sức hấp dẫn nhất cả nước, tỉnh Quảng Ninh cần tiếp tục thực hiện quyết liệt, mạnh mẽ, đồng bộ nhiều giải pháp tăng trưởng xanh.

Tăng trưởng xanh ở tỉnh Quảng Ninh - những điểm sáng từ nhận thức tới hành động

Ngay sau khi “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2050” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, ban hành tại Quyết định số 1393/QĐ-TTg, ngày 25-9-2012, tỉnh Quảng Ninh đã quán triệt mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện; gắn nhiệm vụ thực hiện Chiến lược với quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tỉnh đã cụ thể hóa thành các mục tiêu, chỉ tiêu, các nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp chủ yếu để các cấp, ngành và toàn thể nhân dân tập trung thực hiện.

Trên cơ sở các quy hoạch chiến lược của tỉnh, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV nhiệm kỳ 2015 - 2020, từ cuối năm 2014, tỉnh Quảng Ninh đã nỗ lực cùng với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các đơn vị, tổ chức hữu quan xây dựng và hoàn thiện Kế hoạch hành động tăng trưởng xanh. Từ tháng 7-2015, Quảng Ninh là một trong ba tỉnh, thành phố trong cả nước được Bộ Kế hoạch và Đầu tư lựa chọn triển khai thí điểm xây dựng Kế hoạch hành động tăng trưởng xanh. Ngày 16-11-2015, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh ban hành Kế hoạch số 6970/KH-UBND triển khai thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh của tỉnh giai đoạn 2016 - 2020, với mục tiêu: Phát triển kinh tế nhanh, bền vững; chuyển dịch và tăng tốc độ phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp “xanh”; kiểm soát ô nhiễm môi trường; nâng cao năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu; hướng đến một nền kinh tế các-bon thấp, giảm phát thải và tăng lượng hấp thụ khí nhà kính…

Tỉnh Quảng Ninh lập Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch, tăng cường công tác quản lý môi trường kinh doanh du lịch, thu hút nhiều các nhà đầu tư chiến lược, tập đoàn lớn về du lịch phát triển các sản phẩm đẳng cấp tại tỉnh. Đồng thời, tỉnh cũng đẩy mạnh kết nối hạ tầng đồng bộ đường hàng không, đường bộ cao tốc, đường thủy để thúc đẩy kết nối vùng ở cấp quốc gia, liên kết vùng ở cấp quốc tế và tạo động lực thúc đẩy phát triển giao thông, dịch vụ, du lịch, giúp tỉnh bứt phá trong phát triển theo mô hình tăng trưởng xanh, trong đó, đẩy mạnh hướng tới phát triển kinh tế biển. Tỉnh Quảng Ninh đặt mục tiêu, đến năm 2020, giảm cường độ phát thải khí nhà kính từ 8 - 10% (so với năm 2010); giảm lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng khoảng 10 - 20% so với phương án phát triển bình thường; tăng tỷ lệ che phủ rừng đạt 55%; tỷ lệ khu công nghiệp, cụm công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung đáp ứng được yêu cầu đạt 100%; tỷ lệ đầu tư phát triển các ngành, nghề hỗ trợ bảo vệ môi trường và làm giàu nguồn tài nguyên thiên nhiên đóng góp 3 - 4% GDP...

Tỉnh Quảng Ninh có chiến lược rất rõ ràng để thu hút các nhà đầu tư có thế mạnh về công nghiệp chế biến, chế tạo; nông nghiệp xanh; du lịch, dịch vụ theo hướng quy mô, đẳng cấp; làm tốt công tác quy hoạch, đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông, các khu kinh tế, khu công nghiệp; nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh; hỗ trợ nhà đầu tư trong các lĩnh vực ưu tiên… Cùng với đó, tỉnh ban hành 2 nghị quyết quan trọng, là Nghị quyết số 07-NQ/TU, ngày 24-5-2013, “Về phát triển du lịch Quảng Ninh giai đoạn 2013 - 2020, định hướng đến năm 2030” và Nghị quyết số 02-NQ/TU, ngày 5-2-2016, “Về phát triển dịch vụ”. Qua đó, tạo những bước tiến lớn trong phát triển dịch vụ, du lịch của tỉnh.

Như vậy, về nhận thức, ngay từ những năm đầu của nhiệm kỳ 2010 - 2015, tỉnh Quảng Ninh sớm nhận diện được những yếu tố kìm hãm sự phát triển bền vững của tỉnh, như việc quá phụ thuộc vào công nghiệp khai khoáng, chưa có sự quan tâm đầu tư thỏa đáng về khoa học - công nghệ, đặc biệt là những công nghệ mới, sạch, thân thiện với môi trường…, nên mô hình tăng trưởng của tỉnh chưa thực sự bền vững. Từ đó, tỉnh Quảng Ninh xác định, phải thay đổi mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững, trong đó tăng trưởng xanh sẽ được thực hiện dựa trên quá trình thay đổi mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi phương thức phát triển gắn chặt với việc thực hiện có hiệu quả 3 đột phá chiến lược là cải cách hành chính, đào tạo nguồn nhân lực, phát triển kết cấu hạ tầng. Qua đó, định vị được tiềm năng, thế mạnh, sự phát triển của địa phương, giảm dần việc dựa vào các yếu tố không bền vững như tài nguyên hữu hạn và tăng dần các yếu tố bền vững dựa vào vị trí địa - chính trị, kinh tế tri thức, khoa học - công nghệ, tiêu dùng, đầu tư, xuất khẩu, cảnh quan, văn hóa, truyền thống lịch sử... để phát triển.

Để tạo được sự thống nhất, đồng bộ trong triển khai thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh, tỉnh đưa ra bàn và nhận được sự đồng thuận cao trong hệ thống chính trị cũng như của nhân dân trong tỉnh. Trong đó, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV nhấn mạnh, phấn đấu đến năm 2020, xây dựng Quảng Ninh trở thành tỉnh có cơ cấu kinh tế dịch vụ, công nghiệp; là trung tâm du lịch chất lượng cao của khu vực, một trong những cực tăng trưởng kinh tế của miền Bắc và cả nước... Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV đề ra mục tiêu đến năm 2030, xây dựng, phát triển Quảng Ninh là tỉnh kiểu mẫu giàu đẹp, văn minh, hiện đại; là một trong những trung tâm phát triển năng động, toàn diện, trung tâm du lịch quốc tế, trung tâm kinh tế biển, cửa ngõ của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước. Với quan điểm, định hướng phát triển của tỉnh: Lấy đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế xanh, nhu cầu thị trường, các ngành mới nổi và tăng năng suất lao động làm định hướng; lấy phát triển hạ tầng, cải cách hành chính đồng bộ, hiện đại làm nền tảng; lấy giáo dục - đào tạo, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, sáng tạo và ứng dụng khoa học - công nghệ làm động lực; lấy phát triển văn hóa, xây dựng văn minh sinh thái, tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường làm trọng điểm; chuyển đổi phương thức phát triển từ “nâu” sang “xanh” theo hướng bền vững dựa vào ba trụ cột (thiên nhiên, con người, văn hóa), kết hợp với xu thế hòa bình, hợp tác, hội nhập và cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trên cơ sở đó, đổi mới hệ thống chính trị và xây dựng nền hành chính hiện đại; phát triển công nghiệp dịch vụ, công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí dựa trên nền tảng công nghiệp sáng tạo được tổ chức sản xuất ở trình độ cao…

Từ việc nhận diện rõ những thách thức và thời cơ, qua hơn 10 năm triển khai thực hiện, tỉnh Quảng Ninh xác định phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, từng bước chuyển đổi phương thức phát triển từ “nâu” sang “xanh”, phấn đấu trở thành tỉnh dịch vụ, công nghiệp hiện đại. Hiện thực hóa mục tiêu đó, tỉnh Quảng Ninh chú trọng phát triển mạnh kết cấu hạ tầng, trong đó rõ nét nhất chính là việc đầu tư đưa vào hoạt động các công trình giao thông chiến lược, như cầu Bạch Đằng, đường cao tốc Hải Phòng - Hạ Long, Hạ Long - Vân Đồn, Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn, Cảng khách quốc tế Hạ Long, Cảng tàu quốc tế Tuần Châu...

Những quan điểm, nghị quyết, chỉ thị liên quan đến tăng trưởng xanh của Quảng Ninh đã trở thành định hướng quan trọng cho sự phát triển toàn diện kinh tế - xã hội của tỉnh. Tỉnh đã sáng tạo nhiều cách làm, mô hình mới, chưa có tiền lệ, tạo sự phát triển bứt phá. Đến năm 2020, tỉnh là địa phương đi đầu trong cả nước đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển đổi phương thức phát triển từ “nâu” sang “xanh”, tạo nền tảng vững chắc để Quảng Ninh phát triển nhanh, bền vững hơn nữa sau năm 2020.

Tỉnh Quảng Ninh đã có phương hướng phát triển cụ thể cho các ngành, lĩnh vực quan trọng, trong đó ưu tiên phát triển công nghiệp xanh, tăng nhanh tỷ trọng đóng góp của công nghiệp chế biến, chế tạo công nghệ cao. Bên cạnh đó, mục tiêu trở thành “trung tâm logistics, trung tâm kinh tế biển, nông nghiệp sinh thái xanh - sạch” cũng là những định hướng trọng tâm.

Từ phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, tỉnh Quảng Ninh tập trung vào phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ du lịch cũng như đa dạng hóa các sản phẩm du lịch đồng bộ, hiện đại, hấp dẫn để tạo ra những bước phát triển đột phá mang bản sắc riêng, như Khu nghỉ dưỡng Vinpearl Hạ Long, Công viên Đại Dương, Quần thể nghỉ dưỡng và sân Golf FLC, Khu nghỉ dưỡng Legacy Yên tử, Khu nghỉ dưỡng khoáng nóng cao cấp Quang Hanh, Bảo tàng - Thư viện tỉnh, Cung Quy hoạch, hội chợ và triển lãm tỉnh, Công viên hoa Hạ Long... Cùng với đó, tỉnh tăng cường mở rộng, thu hút được nhiều nhà đầu tư chiến lược có uy tín, thương hiệu, có tiềm lực kinh tế lớn đầu tư vào lĩnh vực du lịch, dịch vụ, như Sun Group, VinGroup,... với nhiều sản phẩm du lịch đẳng cấp quốc tế, giúp nâng tầm du lịch Quảng Ninh. Đặc biệt, thời gian gần đây, việc xây dựng tỉnh Quảng Ninh trở thành điểm đến hấp dẫn cả 4 mùa trong năm với việc phát triển các sản phẩm du lịch mới, như Festival Áo dài, Yên Tử về miền đất Phật mùa thu - Tưởng nhớ Phật hoàng Trần Nhân Tông, Carnaval mùa đông,... cũng đang là những định hướng phát triển du lịch hợp lý và mang lại hiệu quả.

Du khách tham quan trên vịnh Hạ Long_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Không gian du lịch của tỉnh Quảng Ninh cũng được mở rộng với việc tăng cường liên kết vùng, kết nối 4 trung tâm du lịch trọng điểm của tỉnh, bảo đảm tính bền vững, gắn với các sản phẩm đặc thù và nổi trội, bao gồm: Vùng du lịch trung tâm tại thành phố Hạ Long và vùng phụ cận; vùng du lịch văn hóa - lịch sử - tâm linh tại Uông Bí, Đông Triều, Quảng Yên; vùng du lịch biển, đảo, nghỉ dưỡng, vui chơi, giải trí cao cấp tại các huyện Vân Đồn, Cô Tô và vùng du lịch biên giới tại khu vực Móng Cái và vùng lân cận. Đồng thời, tỉnh phát triển không gian du lịch mới ở các địa bàn tiềm năng, như Hải Hà, Tiên Yên, Bình Liêu... Qua đó, tỉnh Quảng Ninh đã từng bước khai thác được thế mạnh, giá trị nổi trội về cảnh quan thiên nhiên, giá trị văn hóa, lịch sử của địa phương.

Bên cạnh đó, tỉnh Quảng Ninh đã và đang làm tốt công tác bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Các giải pháp bảo vệ môi trường được tỉnh triển khai đồng bộ, trên diện rộng, bài bản. Hầu hết các nhà máy tại tỉnh Quảng Ninh đều có hệ thống xử lý nước thải, làm tốt công tác xử lý chất thải rắn. Tỉnh Quảng Ninh là một trong số ít địa phương ban hành quy chuẩn kỹ thuật liên quan đến hoạt động nuôi, trồng thủy sản lồng, bè, giàn có sử dụng phao nổi. Tất cả khu công nghiệp đang hoạt động trên địa bàn tỉnh đã đầu tư hệ thống xử lý nước thải tập trung bảo đảm thu gom toàn bộ nước thải phát sinh, đã có phương án ứng phó và khắc phục sự cố của hệ thống xử lý nước thải tập trung. Chất lượng nước thải sau xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường và liên tục được quan trắc tự động, liên tục kết nối, truyền dữ liệu về Sở Tài nguyên và Môi trường. 80% số cụm công nghiệp có hệ thống thu gom và xử lý nước thải tập trung trước khi đưa vào hoạt động. Trong giai đoạn 2018 - 2022, tổng kinh phí ngân sách tỉnh Quảng Ninh bố trí cho bảo vệ môi trường đạt trên 2.000 tỷ đồng, chiếm 4,59% kinh phí chi thường xuyên ngân sách địa phương. Tại các điểm tham quan ở vịnh Hạ Long, tỉnh đầu tư 40 máy móc, 3 thiết bị xử lý nước thải, 10 thùng rác nổi cỡ lớn, 117 thùng rác(1). Tỉnh khuyến khích doanh nghiệp sử dụng năng lượng tái tạo và tiết kiệm năng lượng ESCO, thúc đẩy du lịch xanh… Phấn đấu đến năm 2025, sẽ chấm dứt khai thác, đóng cửa toàn bộ mỏ đá làm vật liệu xây dựng thông thường để hoàn nguyên môi trường. Toàn bộ dự án trước khi cấp phép hoạt động đều phải bảo đảm thủ tục pháp lý về môi trường theo đúng quy định. Không chấp thuận các dự án đầu tư với công nghệ lạc hậu và các loại hình sản xuất phát thải lớn, có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao. Đây được đánh giá là những động thái tích cực, quyết liệt trong công tác bảo vệ môi trường của tỉnh Quảng Ninh.

Có thể nói, trong quá trình phát triển, Quảng Ninh sớm nhận diện những mâu thuẫn, thách thức giữa giải phóng tiềm năng, thế mạnh và không gian phát triển rộng lớn, với cơ chế, chính sách còn hạn hẹp; giữa đổi mới hệ thống chính trị chưa tương xứng, phù hợp với đổi mới kinh tế và tình hình thực tiễn đang diễn ra... Từ đó, tỉnh từng bước giải quyết mẫu thuẫn này, chuyển đổi mô hình tăng trưởng để hướng tới nền kinh tế xanh, phát triển bền vững và bảo đảm duy trì một môi trường trong lành. Điều này được ghi nhận trong Báo cáo thường niên Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI năm 2022 do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) công bố, Quảng Ninh nằm trong “tốp” 5 các địa phương có Chỉ số xanh cấp tỉnh PGI, với 17.12 điểm. Theo Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh, ở giai đoạn khởi đầu, có thể coi chỉ số PGI 2022 là một bộ chỉ tiêu cho phép đánh giá, đo lường và so sánh những bước tiến chính sách ở cả 4 chỉ số thành phần và chỉ số tổng thể. Đối với 4 chỉ số thành phần, Quảng Ninh đều đạt điểm trên mức trung vị.

Để có thành tích lọt vào “top” 5 Chỉ số xanh cấp tỉnh PGI, trong suốt nhiều năm qua, tỉnh Quảng Ninh luôn nỗ lực với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, người dân, doanh nghiệp trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Nhìn vào sự phát triển của Quảng Ninh trong 10 năm qua cho thấy, quan điểm phát triển kinh tế xanh, bền vững của tỉnh là xuyên suốt, nhưng luôn có cách làm mới, phù hợp với thực tiễn địa phương, đón bắt được xu thế phát triển.

Một số giải pháp để tiếp tục “xanh hóa” các ngành kinh tế

Theo Quyết định số 80/QĐ-TTg, ngày 11-2-2023, của Thủ tướng Chính phủ “Phê duyệt Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050”, quan điểm then chốt của tỉnh Quảng Ninh vẫn là phát triển bền vững, tăng trưởng xanh, tiếp tục chuyển đổi phương thức phát triển từ “nâu” sang “xanh” dựa vào 3 trụ cột: thiên nhiên, con người và văn hóa. Quy hoạch này mang tính kế thừa những định hướng chiến lược trước đây, đồng thời xác định những khâu đột phá mới.

Bên cạnh những kết quả rất đáng ghi nhận về tăng trưởng xanh, tỉnh Quảng Ninh đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn, như mâu thuẫn giữa việc khai thác than, phát triển công nghiệp nặng với phát triển du lịch, dịch vụ trên cùng một địa bàn. Thách thức giữa phát triển công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh với giải quyết vấn đề môi trường sống, cũng như trước những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu và nước biển dâng cao…(2). Vì vậy, việc đổi mới mô hình tăng trưởng, đẩy mạnh phát triển kinh tế xanh đang là yêu cầu cấp bách để phát triển bền vững trong thời gian tới của tỉnh.

Tỉnh Quảng Ninh đặt ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2030, trở thành một trong các tỉnh dẫn đầu về kinh tế biển tại Việt Nam; đạt cơ bản các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển; hình thành văn hóa sinh thái biển; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; ngăn chặn xu thế ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, tình trạng sạt lở bờ biển và biển xâm thực; phục vụ và bảo tồn các hệ sinh thái biển quan trọng… Để đạt được các mục tiêu này, tiếp tục tăng trưởng xanh các ngành kinh tế, cần tiếp tục thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó, tập trung vào một số giải pháp sau:

Một là, cần tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vai trò của tăng trưởng xanh là động lực chính để phát triển bền vững và là công cụ hữu hiệu giúp tỉnh Quảng Ninh cân đối nguồn lực; khuyến khích sự hưởng ứng và tham gia của tất cả các chủ thể trong tỉnh, nhất là doanh nghiệp và người dân, thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa các dự án theo hình thức đối tác công - tư (PPP) trong tăng trưởng xanh; thúc đẩy các mô hình sản xuất, kinh doanh, hình thành các chuỗi giá trị và ngành, nghề mới thông qua “xanh hóa” sản xuất công, nông nghiệp và dịch vụ, khuyến khích phát triển hệ thống phân phối xanh và tiêu dùng xanh; “xanh hóa” lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững...

Hai là, tập trung phát triển các ngành kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ “nâu” sang “xanh” nhằm thực hiện tốt các định hướng đã nêu trong Chương trình hành động của Chính phủ là xây dựng tỉnh Quảng Ninh trở thành trung tâm du lịch quốc tế tầm cỡ và là trung tâm kinh tế biển phát triển bền vững kết nối với khu vực và thế giới, liên kết với các địa phương trong vùng hình thành cụm ngành du lịch với các sản phẩm độc đáo, có sức cạnh tranh cao. Trên cơ sở đó, tiếp tục phát huy thế mạnh phát triển du lịch. Trong Quy hoạch tổng thể của tỉnh Quảng Ninh đến năm 2050, việc phát triển du lịch đã được đề ra; tuy nhiên, thời gian tới, tỉnh cần có một quy hoạch riêng cho phát triển du lịch được xây dựng một cách bài bản, mang tính khoa học cao, trong đó tiếp tục đề cao công tác bảo vệ môi trường cũng như bảo tồn toàn vẹn cảnh quan thiên nhiên. Từ đó, phát triển du lịch bền vững, đáp ứng nhu cầu của du khách đến từ các nước phát triển, những du khách đòi hỏi cao về du lịch xanh, du lịch trải nghiệm, du lịch văn hóa, cộng đồng,...

Du khách tham quan Khu di tích quốc gia đặc biệt Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh_ Ảnh: baoquangninh.vn

Ba là, rà soát những chiến lược phát triển trong tương lai để điều chỉnh phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương, tăng cường khả năng liên kết với các tỉnh, thành phố khác. Tiếp tục phát triển mạnh hệ thống giao thông vận tải nội tỉnh và liên tỉnh. Mặc dù hệ thống giao thông của tỉnh Quảng Ninh đã phát triển vượt bậc trong những năm qua, song trên thực tế, vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu liên kết vùng, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Đây cũng là nguyên nhân chính dẫn đến việc phát triển chưa đồng đều giữa các địa phương trong tỉnh.

Trong quá trình phát triển, tỉnh cần tránh phát triển cục bộ, tập trung đầu tư quá nhiều vào một địa phương hoặc một lĩnh vực nào đó, đồng thời nghiên cứu sâu thế mạnh của từng vùng, từng lĩnh vực nhằm tránh đầu tư dàn trải mà không mang lại hiệu quả. Ví dụ, trong công nghiệp, phát triển công nghiệp xanh, tăng nhanh tỷ trọng đóng góp của công nghiệp chế biến, chế tạo công nghệ cao, đưa ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trở thành một trụ cột chính trong nền kinh tế. Đối với ngành năng lượng, cần tập trung phát triển công nghiệp năng lượng thân thiện với môi trường, chuyển dần sang phát triển năng lượng sạch và năng lượng tái tạo. Không mở rộng các nhà máy nhiệt điện than, đầu tư nâng cao hiệu suất các nhà máy hiện tại, chú trọng công tác bảo vệ môi trường. Phát triển hợp lý, bền vững ngành công nghiệp khai khoáng, trọng điểm là ngành than, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia…

Bên cạnh đó, tỉnh cần xác định rõ hơn những đề án trọng tâm, trọng điểm có tính chiến lược, tạo sự phát triển đột phá cho tỉnh gắn với tư duy mở, cơ chế vượt trội, tập trung nguồn lực nhà nước đủ tầm để kích hoạt, kết nối nguồn lực tư nhân; trong đó, tập trung phát triển Khu kinh tế Vân Đồn và Khu hợp tác kinh tế song phương Móng Cái - Đông Hưng có vai trò cho liên kết vùng và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế; vùng đệm di sản vịnh Hạ Long; phát triển hệ thống đường thủy nội địa, cảng, bến...

Bốn là, cần có thêm các chính sách tạo đột phá trong thu hút có chọn lọc nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI) vào các khu công nghiệp, khu kinh tế, tăng nhanh quy mô và tỷ trọng đóng góp của công nghiệp chế biến, chế tạo công nghệ cao, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế đêm, kinh tế tuần hoàn. Chuyển đổi từ quy hoạch phát triển khu công nghiệp theo tư duy truyền thống sang phát triển “hệ sinh thái công nghiệp” với yêu cầu gắn kết giữa công nghiệp hóa với dịch vụ hóa và đô thị hóa; giữa công nghiệp hóa với bảo vệ môi trường theo nguyên lý kinh tế tuần hoàn; giữa công nghiệp hóa, đô thị hóa với nâng cao chất lượng sống của người dân. Phát triển nông nghiệp sinh thái, đa giá trị gắn với xây dựng nông thôn hiện đại, nông dân văn minh góp phần phục vụ trực tiếp cho phát triển du lịch.

Năm là, tiếp tục hoàn thiện thể chế thực hiện tăng trưởng xanh và tăng cường hệ thống quản lý môi trường; tiếp tục hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội bảo đảm đồng bộ, hiện đại, liên thông tổng thể, thúc đẩy liên kết vùng, nội vùng dựa trên nền tảng mô hình tổ chức không gian phát triển “một tâm, hai tuyến đa chiều, các mũi đột phá, ba vùng động lực” đã được định hình bởi các hành lang giao thông gắn kết với các hàng lang kinh tế và hành lang đô thị; trong đó, lấy các khu kinh tế ven biển, khu đô thị ven biển là hạt nhân để thúc đẩy phát triển kinh tế biển, phù hợp với thực tiễn Quảng Ninh.

Khi tỉnh Quảng Ninh xác định du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn, cần tập trung đầu tư hệ thống dịch vụ chất lượng cao, giá trị gia tăng lớn, đa dạng hóa loại hình sản phẩm du lịch, hướng đến du lịch bền vững, thân thiện với môi trường. Quảng Ninh đặt nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế biển bền vững trên cơ sở phát triển du lịch - dịch vụ kết nối khu vực và quốc tế. Tỉnh cần đầu tư xây dựng hệ thống cảng biển nước sâu, các tàu du lịch đẳng cấp quốc tế gắn với phát triển chuỗi khu kinh tế. Phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ nguồn tài nguyên, môi trường sinh thái, bảo đảm vững chắc quốc phòng - an ninh và chủ quyền biển, đảo; đồng thời, giữ gìn giá trị, phát huy truyền thống lịch sử, bản sắc văn hóa biển đặc trưng Quảng Ninh để phát triển du lịch bền vững.

Tỉnh Quảng Ninh cần bám sát đặc điểm đô thị biển, hướng ra biển, cửa ngõ biển tiền tiêu của Tổ quốc đặt ra các yêu cầu cao về phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng - an ninh, giữ vững chủ quyền biển, đảo, biên giới quốc gia trong tình hình mới. Phát triển các đô thị đồng bộ về kinh tế - xã hội, kết cấu hạ tầng, kiến trúc, nhà ở theo hướng đô thị xanh, thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai và dịch bệnh. Việc quy hoạch, định hướng phát triển đô thị tuyến biên giới phải tính toán đầy đủ yêu cầu hội nhập và cạnh tranh quốc tế, mà ở đó, đô thị phía sau mang tính liên vùng phải làm nền tảng, hỗ trợ cho đô thị phía trước, tạo thành một cấu trúc liên hoàn, liên kết chặt chẽ, tất cả cùng cộng hưởng sức mạnh cho nâng cao năng lực đối trọng, cạnh tranh đô thị xuyên biên giới.

Ngoài ra, cần chú trọng hơn đến việc xây dựng chính sách phù hợp, tạo cơ chế thông thoáng, hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình chuyển dịch mô hình kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh để thu hút được các nhà đầu tư thực sự tâm huyết, muốn phát triển những sản phẩm du lịch chất lượng, bền vững.

Sáu là, cần giải quyết bài toán nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn tới. Mặc dù đã đạt được những kết quả tích cực, nhưng với sự tăng trưởng ấn tượng những năm gần đây, đặc biệt là định hướng chuyển dịch kinh tế từ “nâu” sang “xanh”, nhiều nhà đầu tư, doanh nghiệp đến Quảng Ninh đều đang “khát” nhân lực trình độ cao, nhất là các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; ngành dịch vụ, du lịch cũng đòi hỏi lượng lớn nhân lực có kỹ năng chuyên nghiệp, bài bản hơn. Để tháo gỡ nút thắt này, tỉnh cần tiến hành xây dựng các đề án cụ thể, có cơ chế, chính sách quan tâm đầu tư thỏa đáng phát triển giáo dục - đào tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao, định hướng cho giai đoạn 10-20 năm tới.

Bên cạnh các nguồn lực nội tại, tỉnh cũng cần có cơ chế thu hút, giữ chân người tài ở lại tỉnh lâu dài, trở thành công dân Quảng Ninh. Cùng với đó, tiếp tục quan tâm tạo dựng chuỗi liên kết lao động sau đào tạo với doanh nghiệp, khuyến khích các thành phần kinh tế cùng tham gia đào tạo nghề theo hướng gắn đào tạo với sử dụng, đặc biệt là các tập đoàn, các doanh nghiệp có thương hiệu hiện đã thành công ở Quảng Ninh. Tiếp tục chủ động xây dựng nhiều cơ chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động theo định hướng, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; đồng thời, đẩy mạnh liên kết vùng, hợp tác trong nước và quốc tế về phát triển nguồn nhân lực; liên kết đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh; tăng cường đào tạo đối với các ngành, lĩnh vực mà tỉnh đang cần, như du lịch, ngoại ngữ, quản trị kinh doanh, thương mại quốc tế, chuyên gia về quản lý các khu kinh tế, khu công nghiệp, đào tạo sau đại học,…/.

PHẠM NGỌC HUỆ
Tạp chí Cộng sản
-----------------------
(1) Hoàng Quỳnh: Để du lịch phát triển bền vững, ngày 20-12-2022, https://www.quangninh.gov.vn/chuyen-de/testvandon/Trang/ChiTietTinTuc.aspx?nid=116502
(2) Theo thống kê của Sở Tài nguyên và Môi trường Quảng Ninh, tỉnh Quảng Ninh còn có trên 240 mỏ và điểm quặng đã và đang được khai thác; trong đó, sản lượng khai thác nguyên khai một năm các loại khoáng sản như than đạt trên 40 triệu tấn, vật liệu xây dựng trên 1,4 triệu mét khối, đá vôi xi-măng trên 6,5 triệu tấn, sét xi-măng trên 1,3 triệu tấn... Để khai thác than lộ thiên, theo quy hoạch, hằng năm, ngành than thải ra môi trường khoảng 300 - 500 triệu mét khối đất đá và 100 - 250 triệu mét khối nước thải.
Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/

Chia sẻ bài viết

Thong ke

Thông tin thời tiết

PGS.TS. Nguyễn Đức Bách

TS Nguyễn Trung Thành

ThS. Bùi Quang Đông

Tỉ giá hối đoái

Hội nghị quy hoạch tỉnh Yên Bái giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn 2050

https://essi.org.vn/