Phát huy vai trò chủ thể và sự tham gia của người dân trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới
16:03 15/07/2024
Về Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới
Trong tiến trình phát triển nông nghiệp, nông thôn, việc xây dựng nông thôn mới là yếu tố nền tảng để phát triển toàn diện, tiến tới hiện đại hóa nông thôn. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam (năm 1960) về nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới đã chỉ rõ: “Cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp là khâu chính của toàn bộ công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa… biến nông dân cá thể thành nông dân tập thể, biến sản xuất cá thể thành sản xuất tập thể, phát triển sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới"(1).
Những đổi mới quan trọng trong nông nghiệp, nông thôn như “Khoán 100” theo Chỉ thị số 100-CT/TW, của Ban Bí thư Trung ương Đảng, ngày 13-1-1981, “Cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp”; “Khoán 10” theo Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 5-8-1988, của Bộ Chính trị, “Về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp” đã cụ thể hóa, từng bước tạo hành lang pháp lý để xây dựng nông thôn mới. Đến năm 2001, Ban Kinh tế Trung ương và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ đạo triển khai Chương trình phát triển nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hợp tác hóa, dân chủ hóa. Đây có thể được xem là chương trình thí điểm xây dựng nông thôn mới đầu tiên ở nước ta. Từ năm 2010 đến nay, các tiêu chí xây dựng nông thôn mới được điều chỉnh và áp dụng chỉ tiêu chung cũng như chỉ tiêu riêng theo từng vùng. Nội dung của các tiêu chí lần lượt được điều chỉnh qua Quyết định số 491/QĐ-TTg, ngày 16-4-2009, “Về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới” và Quyết định số 1980/QĐ-TTg, ngày 17-10-2016, “Về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020”, Quyết định số 318/QĐ-TTg, ngày 8 - 3 - 2022, "Ban hành bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới và bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 - 2025", của Thủ tướng Chính phủ.
Sau gần 15 năm triển khai các chương trình thí điểm xây dựng nông thôn mới, chương trình này chính thức trở thành một chương trình mục tiêu quốc gia, triển khai trên phạm vi toàn quốc. Đây được xem là một chương trình phát triển nông thôn toàn diện, đồng bộ trên các lĩnh vực khác nhau ở nông thôn và là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Cho đến nay, Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020 đã hoàn thành, đồng thời mở ra một giai đoạn mới hướng tới phát triển toàn diện và bền vững nông thôn Việt Nam.
Tính đến hết năm 2023, cả nước có khoảng 6.370/8.167 (78%) xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó có 1.612 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 256 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu. Có 270 đơn vị cấp huyện được công nhận hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn nông thôn mới. Trong tổng số 20 tỉnh, thành phố có 100% xã đạt chuẩn nông thôn mới, có 5 tỉnh (Nam Định, Đồng Nai, Hà Nam, Hưng Yên và Hải Dương) đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới(2).
Vai trò của chủ thể và sự tham gia của người dân trong chương trình nông thôn mới
Văn kiện Đại hội XII của Đảng nêu rõ nhiệm vụ: “Tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, nhất là nội dung nhân dân làm chủ và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” không chỉ phản ánh mức độ tham gia của người dân - đặc biệt phù hợp với chương trình xây dựng nông thôn mới - mà còn phản ánh đặc điểm dân chủ trong các chương trình, dự án lớn của quốc gia.
Trước đó, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa X “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn” đã nêu 5 quan điểm bao gồm: 1- Nông nghiệp, nông dân, nông thôn là ba thành tố có quan hệ mật thiết, gắn bó, không thể tách rời; 2- Nông dân là chủ thể, là trung tâm của quá trình phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới; 3- Nông nghiệp là lợi thế quốc gia, trụ đỡ của nền kinh tế; 4- Xây dựng nông thôn hiện đại, phồn vinh, hạnh phúc, dân chủ, văn minh; có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ; môi trường xanh, sạch, đẹp; đời sống văn hóa lành mạnh, phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm; 5- Phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân và cư dân nông thôn là trách nhiệm, nhiệm vụ trọng tâm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng(3).
Có thể thấy, trong 5 nội dung này, vai trò của người dân như một chủ thể được nhấn mạnh khi triển khai xây dựng nông thôn mới. Vai trò của người dân không nên hiểu là sự phản ánh tỷ lệ đóng góp tài chính mà người dân đối ứng trong các chương trình đối tác công - tư, mà cần được tiếp cận ở phạm vi rộng hơn, bao gồm sự tham gia của người dân trong tiến trình ra quyết định và thực thi quyết định. Người dân tham gia toàn bộ mọi hoạt động xây dựng nông thôn mới, là người đề xuất nhu cầu, tham gia thực hiện, hưởng thụ, kiểm tra, giám sát các tiêu chí nông thôn mới.
Kết quả quá trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn vừa qua cho thấy, sự tham gia của người dân được thể hiện bằng những đóng góp rất cụ thể. Nguồn ngân sách đóng vai trò “vốn mồi” để thu hút các nguồn huy động từ doanh nghiệp, người dân tự nguyện đóng góp không ngừng tăng lên trong cơ cấu nguồn vốn cho chương trình. Cụ thể, năm 2021, nguồn vốn từ ngân sách là 20.975 tỷ đồng (chiếm 3,5%) và vốn doanh nghiệp và người dân tự nguyện đóng góp là 15.847 tỷ đồng (2,6%), đến năm 2022, nguồn đóng góp của doanh nghiệp tăng lên 34.881 tỷ đồng (chiếm 4,7%); người dân tự nguyện đóng góp 21.392 tỷ đồng (chiếm 2,9%). Tính đến hết tháng 6-2023, tổng nguồn lực huy động thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2023 là khoảng 1.752.000 tỷ đồng, trong đó, vốn doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức kinh tế khoảng 4%, người dân và cộng đồng đóng góp tự nguyện khoảng 2,8%. Ngoài ra, sự tham gia của người dân còn thể hiện gián tiếp qua các kết quả xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội; phát triển sản xuất, tạo sinh kế và nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn; phát triển văn hóa - xã hội; quản lý môi trường và về việc nâng cao chất lượng hệ thống chính trị, bảo đảm quốc phòng - an ninh ở các địa phương.
Đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam, người dân là bên có liên quan đóng vai trò trung tâm. Phát triển nông thôn bền vững cần dựa trên bốn cột trụ kinh tế, xã hội - văn hóa, môi trường và thể chế. Ngoài ra, cách tiếp cận lấy cộng đồng cư dân nông thôn làm chủ tiến trình phát triển, là yếu tố then chốt của phát triển bền vững, trên cơ sở kết hợp với sự chỉ đạo của Nhà nước, chú trọng đa dạng hóa và hài hòa nguồn lực, phát triển kinh tế nông thôn, tăng thu nhập cư dân, duy trì bản sắc văn hóa, xã hội và môi trường nông thôn.
Sự tham gia của người dân trong tiến trình xây dựng nông thôn mới còn thể hiện rất đa dạng ở mức độ, trong từng tiêu chí khác nhau của nông thôn mới. Ở một số địa phương, sự tham gia của người dân từ nhận biết - bàn luận - tham gia - giám sát có thể ảnh hưởng tích cực đến mức độ đóng góp về vật chất(4). Sự tham gia của người dân có tác động đến chất lượng và hiệu quả sử dụng nguồn lực xây dựng công trình hạ tầng trên các khía cạnh: giảm chi phí đầu tư xây dựng công trình, giảm chi phí đầu tư ngân sách, góp phần bảo đảm chất lượng công trình và phù hợp với nhu cầu sử dụng của người dân. Tuy nhiên, sự tham gia của người dân trong xây dựng nông thôn mới ở một số địa phương vẫn còn mang tính hình thức, chưa được phát huy đúng mức so với tiềm năng. Một số nơi có biểu hiện cán bộ, công chức chưa thật sự tin tưởng người dân, cũng như chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm trong việc bảo đảm quyền tham gia của người dân; chưa thực hiện tốt trách nhiệm chia sẻ và cung cấp thông tin cho người dân; chưa coi trọng việc tương tác, đối thoại với người dân để lắng nghe ý kiến của người dân trong quá trình xây dựng nông thôn mới; chưa tạo điều kiện và hỗ trợ để các đoàn thể, thiết chế cộng đồng tham gia các công việc chung ở cơ sở và cung ứng dịch vụ công...
Một số hàm ý chính sách nhằm nâng cao sự tham gia của người dân trong chương trình nông thôn mới
Chương trình xây dựng nông thôn mới có ý nghĩa quan trọng, giúp cải thiện đời sống của người dân, làm thay đổi diện mạo của các khu vực nông thôn trên cả nước theo hướng tích cực hơn. Tuy nhiên, các khác biệt tập trung chủ yếu ở các quan điểm về vai trò, mức độ tham gia của các bên. Nhìn chung, phần lớn chính quyền địa phương kỳ vọng và đánh giá người dân đóng vai trò chủ thể (cả về mặt lý luận và thực tế), là đối tác quan trọng nhất, đóng góp nhiều nhất cho xây dựng nông thôn mới. Tuy nhiên, trong thực tế, người dân lại cho rằng, chủ thể chính vẫn là Nhà nước, người dân làm theo các hướng dẫn và tham gia hạn chế vào việc thảo luận, giám sát, quản lý các công trình, hoạt động trên địa bàn của mình. Những khác biệt giữa hai nhóm thể hiện những vấn đề đang phát sinh và có nguy cơ làm giảm hiệu quả và tính bền vững của chương trình trong tương lai.
Vì vậy, để Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới thành công và bảo đảm tính bền vững, một trong những yếu tố quan trọng là hiện thực hóa vai trò chủ thể của người dân, vốn đã được nhấn mạnh trong quan điểm chỉ đạo của Đảng, thể hiện qua phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Để phát huy vai trò chủ thể này, đồng thời, tăng cường sự tham gia của người dân ở các mức độ khác nhau của chương trình nông thôn mới, cần thống nhất ở một số quan điểm sau:
Thứ nhất, sự khác biệt về mức độ tham gia của người dân theo các tiêu chí nông thôn mới là hiển nhiên và có thể chấp nhận được. Trong số các tiêu chí xây dựng nông thôn mới, có những tiêu chí thuộc trách nhiệm của Nhà nước, như đầu tư về hạ tầng giao thông, văn hóa, y tế, giáo dục, quốc phòng, an ninh. Tuy nhiên, những tiêu chí liên quan đến lao động, việc làm và tổ chức sản xuất là những tiêu chí gắn liền, thiết thực với đời sống của người dân và thuộc về trách nhiệm của người dân. Nhà nước bằng tất cả những công cụ chính sách có thể tạo ra môi trường thuận lợi nhất để người dân có điều kiện phát huy tiềm năng lao động, sản xuất của mình. Ở một số địa phương, chính quyền vận động người dân xây dựng một số mô hình sản xuất, có thành công và chưa thành công. Điểm chung của những mô hình thành công, suy cho cùng, đều là những mô hình xuất phát đúng từ nhu cầu và năng lực của người dân, trên cơ sở định hướng từ thị trường. Chính vì vậy, chính quyền địa phương nên hỗ trợ cho các dự án, hỗ trợ người dân tìm kiếm, phát huy các sáng kiến, nhất là các mô hình phát triển cộng đồng dựa vào nội lực. Với cách làm này, Nhà nước đóng vai trò hỗ trợ ban đầu để giúp người dân hình thành ý tưởng và định hướng sản xuất, hỗ trợ về chính sách và tiếp cận các nguồn lực, còn người dân mới thực sự là chủ thể của quá trình phát huy các sáng kiến sản xuất và triển khai thực hiện, duy trì và phát triển bền vững các mô hình sản xuất.
Thứ hai, mức độ tham gia của người dân theo các mức biết - bàn - làm - kiểm tra giảm dần đối với hầu như tất cả các tiêu chí. Tuy nhiên, từ thực tiễn một số địa phương, một số tiêu chí lại cho thấy điều ngược lại khi người dân có thể có mức độ làm cao hơn mức độ bàn. Từ đó cho thấy, khi mức độ biết và bàn của người dân ở mức cao thì mức độ làm có thể chuyển từ tham gia thụ động sang tham gia chủ động, tăng tính bền vững của dự án.
Thứ ba, sự khác biệt giữa các vùng, miền về mức độ tham gia của người dân trong chương trình là một yếu tố cần phải chỉnh đốn. Ở một số địa phương, chẳng hạn tại tỉnh Nam Định, yếu tố văn hóa gia đình, làng xã, cộng đồng là một trong những nhân tố rất tích cực đối với tham gia của người dân trong chương trình nông thôn mới. Thậm chí, những gia đình có người thân di cư đến các thành phố lớn để làm việc vẫn có những hình thức đóng góp khác nhau cho địa phương vào các dịp lễ, tết truyền thống của địa phương, gia tộc. Ngược lại, một số địa phương mà người dân chủ yếu là người nhập cư, tính gắn kết trong cộng đồng ít nhiều bị hạn chế và vì vậy sẽ ảnh hưởng đến các hoạt động tham gia có yếu tố cộng đồng. Phát huy truyền thống văn hóa gia đình, dòng tộc là một hình thức để gắn kết cộng đồng tích cực trong xây dựng nông thôn mới. Ngoài ra, một số địa phương cũng có cách làm hay bằng cách khuyến khích các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp tham gia hỗ trợ, đỡ đầu cho các xã cụ thể, đóng góp tích cực cho chương trình tại các địa phương.
Thứ tư, sự khác biệt về quan điểm của các bên có liên quan về vai trò, mức độ tham gia của các bên là một trong những yếu tố quan trọng cần xem xét và có thể ảnh hưởng đến tính bền vững của chương trình. Giải pháp tiên quyết là các hoạt động cụ thể của chương trình cần được thiết kế từ dưới lên và có sự tham gia của người dân từ những bước đầu tiên. Chỉ khi người dân thực sự tham gia đầy đủ ở các mức độ biết - bàn - làm - kiểm tra thì người dân mới thực sự là chủ thể của chương trình, có trách nhiệm và bảo đảm cho sự bền vững của chương trình nông thôn mới, thực hiện thành công một trong những chương trình phát triển nông thôn toàn diện nhất mà cả nước đang đồng tâm, ra sức triển khai./.
(2) Bảo Nhi: Năm 2023, cả nước có khoảng 6.370 xã đạt chuẩn nông thôn mới, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn điện tử, ngày 2-1-2024, http://www.tapchinongnghiep.vn/nong-thon-moi/nam-2023-ca-nuoc-co-khoang-6370-xa-dat-chuan-nong-thon-moi-140627#:~:text=T%C3%ADnh%20%C4%91%E1%BA%BFn%20h%E1%BA%BFt%20n%C4%83m%202023,nhi%E1%BB%87m%20v%E1%BB%A5%2F%C4%91%E1%BA%A1t%20chu%E1%BA%A9n%20NTM
(3) Nghị quyết số 19-NQ/TW, ngày 16-06-2022, của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
(4) Nguyễn Văn Tuấn: “Vấn đề phát huy sự tham gia đóng góp của người dân cho chương trình xây dựng nông thôn mới - Bài học kinh nghiệm từ mô hình thí điểm Thụy Hương”, Tạp chí khoa học và công nghệ Lâm nghiệp, số 12-2012, tr.111 - 117
(5) Nghiên cứu được tài trợ bởi Quỹ Phát triển khoa học và Công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) trong đề tài mã số 502.99-2020.38