Pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán ở Việt Nam hiện nay

18:00 10/08/2021

Kiểm toán nhà nước là một trong những công cụ góp phần quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước. Kết luận, kiến nghị của kiểm toán giúp Chính phủ, Quốc hội đánh giá đúng thực trạng tài chính ngân sách Nhà nước; cung cấp các thông tin làm căn cứ cho việc hoạch định các chính sách, ra quyết định có hiệu lực cao. Thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình sẽ mang lại tính hiệu lực, hiệu quả cao trong thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán. Nhằm làm rõ điều này, bài viết tập trung trình bày khái quát hoạt động kiểm toán ở Việt Nam, thực trạng các quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về thực hiện công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình trong kết luận, kiến nghị kiểm toán. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp, khuyến nghị hoàn thiện chính sách pháp luật về công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán ở Việt Nam hiện nay.

1. Khái quát hoạt động kiểm toán ở Việt Nam

Kiểm toán nhà nước là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Kiểm toán nhà nước có chức năng đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị đối với việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công trên nguyên tắc “trung thực, khách quan, công khai, minh bạch”.

Qua gần 26 năm hình thành và phát triển, cùng với sự lớn mạnh về địa vị pháp lý, chất lượng kiểm toán của KTNN đã được nâng cao, cung cấp cho Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan chức năng và đơn vị được kiểm toán nhiều kiến nghị có giá trị thực tiễn; đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu về thông tin phục vụ hoạt động giám sát và phê chuẩn quyết toán NSNN của Quốc hội và HĐND các cấp. Tổng hợp kết quả kiểm toán 26 năm (từ 1994-2019), KTNN đã phát hiện và kiến nghị xử lý tài chính 485.982 tỷ đồng, trong đó tăng thu NSNN 102.992 tỷ đồng, giảm chi NSNN 110.559 tỷ đồng, tăng giá trị doanh nghiệp, phần vốn nhà nước tại các công ty cổ phần 14.773 tỷ đồng, kiến nghị xử lý tài chính khác 257.656 tỷ đồng. Tính riêng 05 năm gần đây (2015-2019), KTNN đã kiến nghị xử lý tài chính 315.298 tỷ đồng, chiếm 64,8% tổng số kiến nghị xử lý tài chính trong 26 năm, trong đó các khoản tăng thu NSNN 69.174 tỷ đồng, giảm chi NSNN 80.773 tỷ đồng, tăng giá trị doanh nghiệp, phần vốn nhà nước tại các công ty cổ phần 14.773 tỷ đồng, kiến nghị xử lý tài chính khác 150.616 tỷ đồng.

Bên cạnh đó, KTNN đã kiến nghị sửa đổi bổ sung, thay thế, hủy bỏ hàng nghìn văn bản quy phạm pháp luật chưa đúng quy định hoặc không phù hợp với thực tế. Chỉ tính riêng từ năm 2016 đến nay, KTNN đã kiến nghị Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ 764 văn bản (08 Luật, 37 nghị định, 121 thông tư, 114 quyết định, 36 nghị quyết, 448 văn bản khác). Ngoài ra, KTNN còn đề xuất nhiều ý kiến có giá trị để hoàn thiện một số văn bản quy phạm pháp luật như Luật Ngân sách nhà nước, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Đất đai, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Thực hành tiết kiệm chống lãng phí, Luật Đầu tư công, Luật Phòng chống tham nhũng, Luật Bảo hiểm xã hội...

Đây là những đóng góp thiết thực của KTNN với vai trò cơ quan kiểm tra tài chính tối cao của Đảng và Nhà nước song cũng đặt ra nhiều thách thức về công khai, minh bạch và tăng cường trách nhiệm giải trình đối với việc thực hiện các kết luận và kiến nghị của KTNN.

2. Thực trạng pháp luật về công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán ở Việt Nam hiện nay

Theo quy định của Luật KTNN năm 2015 và Luật KTNN sửa đổi năm 2019, trách nhiệm, quyền hạn, nghĩa vụ về công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của các đơn vị được kiểm toán và của các tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của KTNN được quy định như sau:

(i) Quy định về công khai, minh bạch kết luận và kiến nghị kiểm toán: KTNN có trách nhiệm báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán năm và kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội; gửi báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán năm và kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán cho Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội; cung cấp kết quả kiểm toán cho Bộ Tài chính, Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân nơi kiểm toán và cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng và pháp luật có liên quan[1]. Bên cạnh đó, Báo cáo kiểm toán (Bao gồm cả báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán năm và báo cáo kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán) sau khi phát hành được công bố công khai (trừ những nội dung thuộc bí mật nhà nước theo quy định của pháp luật) được thực hiện theo một hoặc một số hình thức sau: Họp báo; công bố trên Công báo và phương tiện thông tin đại chúng; đăng tải trên trang thông tin điện tử và các ấn phẩm của Kiểm toán nhà nước; niêm yết tại trụ sở của đơn vị được kiểm toán[2].

(ii) Quy định về quyền và nghĩa vụ của đơn vị được kiểm toán, đơn vị có liên quan:

- Đơn vị được kiểm toán, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán thực hiện quyền khiếu nại (sau đây gọi là người khiếu nại) về đánh giá, xác nhận, kết luận, kiến nghị kiểm toán trong báo cáo kiểm toán, thông báo kết quả kiểm toán, thông báo kết luận, kiến nghị của Kiểm toán nhà nước khi có căn cứ cho rằng hành vi, đánh giá, xác nhận, kết luận, kiến nghị kiểm toán đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình[3].

- Thực hiện đầy đủ, kịp thời kết luận, kiến nghị kiểm toán của Kiểm toán nhà nước về quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công; thực hiện biện pháp để khắc phục yếu kém trong hoạt động của mình theo kết luận, kiến nghị của Kiểm toán nhà nước; báo cáo bằng văn bản về việc thực hiện kết luận, kiến nghị đó cho Kiểm toán nhà nước[4]; trong quá trình khiếu nại, người khiếu nại vẫn phải thực hiện đầy đủ, kịp thời kết luận, kiến nghị kiểm toán của Kiểm toán nhà nước, trừ trường hợp Tổng Kiểm toán nhà nước quyết định tạm đình chỉ thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của Kiểm toán nhà nước[5].

(iii) Quy định về quyền và nghĩa vụ của KTNN:

- Kiểm toán nhà nước có quyền yêu cầu đơn vị được kiểm toán thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của Kiểm toán nhà nước đối với sai phạm trong báo cáo tài chính và sai phạm trong việc chấp hành pháp luật; kiến nghị thực hiện biện pháp khắc phục yếu kém trong hoạt động của đơn vị do Kiểm toán nhà nước phát hiện; kiến nghị cơ quan, người có thẩm quyền yêu cầu đơn vị được kiểm toán thực hiện đầy đủ, kịp thời các kết luận, kiến nghị kiểm toán về sai phạm trong báo cáo tài chính và sai phạm trong việc chấp hành pháp luật; đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật những trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, kịp thời kết luận, kiến nghị kiểm toán của Kiểm toán nhà nước.

- Kiểm toán nhà nước có trách nhiệm lập và gửi báo cáo kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán. Để thực hiện được điều này, KTNN phải lập kế hoạch và tổ chức kiểm tra đơn vị được kiểm toán trong việc thực hiện đầy đủ, kịp thời kết luận, kiến nghị kiểm toán của Kiểm toán nhà nước. Trong đó, việc kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán được thực hiện theo các hình thức sau đây: Yêu cầu đơn vị được kiểm toán báo cáo bằng văn bản kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán; Tổ chức kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán tại đơn vị được kiểm toán và cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan.

Ngoài ra, để chỉ đạo các đơn vị tổ chức thực hiện nghiêm túc các kết luận, kiến nghị của KTNN, các năm gần đây Quốc hội đều giao Chính phủ chỉ đạo các cơ quan trung ương, địa phương và đơn vị kịp thời khắc phục những hạn chế được nêu trong kết luận, kiến nghị của Kiểm toán nhà nước. Thủ tướng Chính phủ cũng chỉ đạo và ban hành các chế tài để tăng cường trách nhiệm của các Bộ, cơ quan trung ương và các địa phương trong thực hiện kết luận và kiến nghị kiểm toán: “Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan khác ở Trung ương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về việc chậm thực hiện các kết luận của cơ quan thanh tra, kiến nghị của cơ quan kiểm toán đối với các sai phạm trong quản lý thu, chi ngân sách nhà nước, tài sản công thuộc trách nhiệm được giao quản lý”; “Trường hợp các bộ, cơ quan trung ương và địa phương không chấp hành chế độ báo cáo kết quả xử lý các kết luận của cơ quan thanh tra, kiến nghị của cơ quan kiểm toán quy định tại Chỉ thị này hoặc tiến độ xử lý các sai phạm chậm, Bộ Tài chính tạm dừng cấp kinh phí theo quy định của Luật ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn; tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ”[6].

3. Thực trạng thực hiện pháp luật về công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán ở Việt Nam

Với hệ thống văn bản được quy định công khai, minh bạch và rõ ràng về trách nhiệm, nghĩa vụ của các bên liên quan, đặc biệt là các văn bản chỉ đạo, điều hành của Quốc hội, Chính phủ trong các năm gần đây, công tác thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán đã có những kết quả đáng ghi nhận, cụ thể:

(i) Về gửi báo cáo kiểm toán: Nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động kiểm toán, bên cạnh việc gửi báo cáo kiểm toán đến các đơn vị, cơ quan chức năng theo quy định, những vấn đề quan trọng KTNN đều có văn bản gửi trực tiếp đến người đứng đầu đơn vị được kiểm toán (Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan TW, Bí thư và Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW) và các cơ quan liên quan để chỉ đạo, đôn đốc thực hiện; đồng thời, báo cáo kiểm toán cũng được gửi đến Ban Nội chính TW, Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội, Bộ Tài chính và một số cơ quan theo yêu cầu, nhất là Báo cáo kiểm toán năm, Báo cáo kiểm toán quyết toán NSNN được gửi đến từng Đại biểu Quốc hội.

(ii) Về công khai và cung cấp kết quả kiểm toán

- Thực hiện quy định của Luật KTNN, hàng năm KTNN đều tổ chức họp báo để công bố kế hoạch kiểm toán, báo cáo kiểm toán năm và công khai kết quả một số cuộc kiểm toán có quy mô lớn, có nội dung được dư luận xã hội quan tâm trên Tạp chí, Website của KTNN. Kết quả kiểm toán được công khai ngày càng tạo sự tin tưởng của Quốc hội, Chính phủ và nhân dân đối với hoạt động kiểm toán của KTNN. Ngoài ra, KTNN còn lập nhiều báo cáo định kỳ gửi các cơ quan chức năng theo quy định, chủ động lập các báo cáo chuyên đề để báo cáo Lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Việc công khai, minh bạch kết quả kiểm toán hàng năm cũng đã tạo được niềm tin đối với các tổ chức quốc tế đang có hoạt động tài trợ, viện trợ cho Việt Nam.

- Thực hiện trách nhiệm quy định trong Luật KTNN và Luật Phòng, chống tham nhũng, tính từ năm 2016 đến 9 tháng đầu năm 2019 KTNN đã cung cấp 326 bộ hồ sơ, tài liệu cho các cơ quan chức năng của Đảng, Nhà nước và Đại biểu Quốc hội để phục vụ kiểm tra, giám sát; trong giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2019, KTNN đã chuyển 22 vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật được phát hiện qua hoạt động kiểm toán sang cơ quan điều tra để điều tra làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật.

(iii) Về kết quả thực hiện kiến nghị kiểm toán

Công tác kiểm tra và phối hợp với Bộ Tài chính đôn đốc, thực hiện kiến nghị kiểm toán cho thấy:

- Về kiến nghị xử lý tài chính: Từ năm 2013 đến năm 2018 các đơn vị được kiểm toán đã thực hiện là 192.974 tỷ đồng, bằng 72,85% (185.674/264.883 tỷ đồng);

- Về kiến nghị sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ văn bản: Các đơn vị đã thực hiện sửa đổi bổ sung, thay thế, hủy bỏ hàng trăm văn bản; riêng từ năm 2012 đến 2018, các đơn vị được kiểm toán đã sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, thay thế 274 văn bản (08 nghị định, 43 thông tư, 18 nghị quyết, 02 chỉ thị, 47 quyết định, 86 văn bản khác) và nhiều văn bản khác đang được các đơn vị tổ chức thực hiện.

- Nhiều tồn tại, hạn chế, bất cập trong công tác quản lý, điều hành, sử dụng tài chính, tài sản công của các bộ, ngành, địa phương và đơn vị được kiểm toán đã được phát hiện và kiến nghị chấn chỉnh kịp thời như: Công tác lập, giao dự toán thu ngân sách hàng năm chưa sát thực tế; tình trạng bố trí vốn đầu tư còn dàn trải, hiệu quả chưa cao; tình trạng thất thu về thuế, phí, lệ phí, thu khác ngân sách và thu vượt, thu chưa có quy định hoặc tự ban hành mức thu tại các Bộ, cơ quan TW, địa phương… chậm được chấn chỉnh, xử lý; Việc chấp hành các quy định về kê khai, nộp thuế, thu phí, lệ phí tại hầu hết các doanh nghiệp, đơn vị được kiểm toán chưa được thực hiện đầy đủ; việc hạch toán thiếu doanh thu, xác định sai chi phí tính thuế, nghĩa vụ nộp NSNN còn xảy ra phổ biến; Công tác miễn, giảm, giãn, hoàn, xóa nợ thuế và chống thất thu ngân sách đối với hoạt động chuyển giá; công tác quản lý thu từ hoạt động tạm nhập, tái xuất; việc ban hành giá thuê đất, đơn giá thu tiền sử dụng đất, miễn, giảm, gia hạn nộp tiền sử dụng đất, điều chỉnh đơn giá thuê đất sau thời gian ổn định... cũng còn khá nhiều bất cập; xác định phương án tài chính, thời gian thu hồi vốn của các hợp đồng BT, BOT còn bất hợp lý; việc đầu tư thiếu hiệu quả, lãng phí tại một số tập đoàn, tổng công ty nhà nước....

Mặc dù đã đạt được những kết quả nêu trên, song thực trạng việc thực hiện kết luận và kiến nghị kiểm toán của KTNN vẫn còn một số hạn chế cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện, cụ thể như:

(1) Còn một số kiến nghị xử lý tài chính chưa được các đơn vị triển khai thực hiện triệt để. Bình quân sau 1 năm triển khai thực hiện, còn khoảng 25-30% các kết luận, kiến nghị kiểm toán còn tồn đọng. Trong đó, nguyên nhân chủ yếu là do: Số kiến nghị xử lý tài chính tăng lớn; đơn vị được kiểm toán gặp khó khăn về tài chính hoặc đang rà soát nguồn tài chính để bố trí nguồn nộp NSNN; một số đơn vị liên quan đang thực hiện các thủ tục xác minh hoặc còn vướng mắc trong quá trình phối hợp thực hiện; Đơn vị đang trong quá trình thực hiện kiến nghị kiểm toán, hoặc việc thực hiện liên quan nhiều đối tượng, đơn vị nên chậm trễ trong quá trình thực hiện; Dự án đầu tư đang trong quá trình thực hiện hoặc đã hoàn thành nhưng chưa được phê duyệt quyết toán nên đơn vị đề nghị sẽ thực hiện khi quyết toán; một số kiến nghị kiểm toán chưa phù hợp với đặc thù, điều kiện thực tiễn dẫn đến khó khăn cho đơn vị khi triển khai thực hiện…

(2) Tỷ lệ thực hiện đối với các kiến nghị sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, thay thế các văn bản pháp luật còn chậm được thực hiện; bình quân sau 01 năm, các kiến nghị về cơ chế, chính sách chỉ thực hiện đạt từ 30-50% số văn bản kiến nghị. Nguyên nhân chủ yếu do việc thực hiện sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc hủy bỏ các văn bản pháp luật phải được thực hiện theo các trình tự của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các quy định pháp lý hiện hành nên cần có thời gian thực hiện. Bên cạnh đó, công tác phối hợp giữa KTNN với các cơ quan có liên quan trong kiểm tra, giám sát việc thực hiện sửa đổi cơ chế, chính sách theo các kết luận, kiến nghị kiểm toán chưa được chú trọng và thực hiện thường xuyên.

(3) Kiến nghị kiểm điểm trách nhiệm tập thể, cá nhân: Trong các năm gần đây, đặc biệt là từ khi Luật Phòng chống tham nhũng 2018 có hiệu lực thi hành, công tác theo dõi, kiểm tra, công khai, minh bạch trong thực hiện các kiến nghị về kiểm điểm trách nhiệm đối với cá nhân, tập thể đã được đẩy mạnh. Riêng năm 2018, theo Báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán năm cho thấy có 43/56 cuộc kiểm toán có kiến nghị kiểm điểm trách nhiệm đối với cá nhân, tập thể đã được các đơn vị thực hiện, song thực tiễn cũng cho thấy việc thực hiện kiểm điểm trách nhiệm tập thể, cá nhân theo các kết luận và kiến nghị của kiểm toán tại một số đơn vị còn thiếu quyết liệt, chưa triệt để. Nguyên nhân chủ yếu do chưa làm rõ trách nhiệm người đứng đầu trong triển khai, thực hiện các kết luận và kiến nghị kiểm toán; thiếu sự tham gia giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước như Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Ủy ban Pháp luật của Quốc hội... trong thực hiện kiểm điểm trách nhiệm tập thể, cá nhân theo kết luận và kiến nghị kiểm toán.

(4) Công tác công khai Báo cáo kiểm toán và kết quả kiểm toán tại các đơn vị đã được thực hiện theo quy định, song hình thức công khai chủ yếu là công khai tại đơn vị được kiểm toán; việc công khai trên các phương tiện thông tin truyền thông (báo, đài, truyền hình, tạp chí...) còn hạn chế về số lượng; việc công khai bằng hình thức họp báo mới chủ yếu được thực hiện đối với Báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán năm nên đã phần nào hạn chế trách nhiệm giải trình trong thực hiện kết luận và kiến nghị kiểm toán ở Việt Nam.

(5) Luật KTNN sửa đổi năm 2019 đã ban hành, có hiệu lực từ 01/7/2020 song đến nay vẫn chưa có các văn bản hướng dẫn thi thành, đặc biệt là các quy định chính về công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán như: Bổ sung hướng dẫn nơi nhận báo cáo kiểm toán đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng và pháp luật có liên quan quy định tại điểm c, Khoản 2, Điều 1, Luật KTNN sửa đổi năm 2019; sửa đổi các hướng dẫn về khiếu nại và trả lời khiếu nại trong hoạt động kiểm toán, khởi kiện quyết định giải quyết khiếu nại trong hoạt động kiểm toán nhà nước theo quy định tại Khoản 13, 14, Điều 1, Luật KTNN sửa đổi năm 2019....

4. Một số giải pháp, khuyến nghị hoàn thiện chính sách pháp luật về công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán ở Việt Nam

Trong xu hướng phát triển hiện nay, vị trí, vai trò của các cơ quan kiểm tra tài chính công đối với việc nâng cao trách nhiệm giải trình của Chính phủ về quản lý tài chính - ngân sách, phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, thực hiện cải cách tài chính công, hội nhập quốc tế, công khai minh bạch và đẩy mạnh cải cách hành chính ngày càng được chú trọng và nâng cao. Chính vì vậy, việc nâng cao chất lượng và hiệu lực hoạt động kiểm toán của KTNN nói chung và hoàn thiện chính sách pháp luật về công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán thực chất là tăng cường vai trò và quyền hạn của KTNN trong thiết chế Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Trên cơ sở định hướng phát triển chung của Ngành, giải pháp cho việc nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, theo dõi và báo cáo kết quả thực hiện các kết luận, kiến nghị của KTNN cần phải tuân thủ các chủ trương và định hướng sau:

Thứ nhất, phù hợp với tiến trình cải cách hành chính và tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam;

Thứ hai, phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về quá trình dân chủ hóa, công khai tài chính của các cơ quan, các tổ chức kinh tế Nhà nước và công khai kết quả kiểm toán của KTNN.

Thứ ba, phù hợp với vai trò và địa vị pháp lý của KTNN, thực thi đúng theo Luật KTNN.

Thứ tư, thực hiện đầy đủ các chức năng của KTNN; đảm bảo tính độc lập, khách quan trong hoạt động quản lý, theo dõi việc thực hiện kiến nghị kiểm toán của KTNN.

Thứ năm, phù hợp với chiến lược phát triển nguồn nhân lực, chiến lược nâng cao chất lượng kiểm toán theo Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2030 và tầm nhìn 2035.

Thực hiện các chủ trương, định hướng nêu trên, để nâng cao chất lượng công tác công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán, các đơn vị trong toàn Ngành cần nghiên cứu quán triệt và tổ chức thực hiện đồng bộ một số giải pháp chủ yếu sau:

Thứ nhất, nâng cao chất lượng kiến nghị kiểm toán, lấy chất lượng kiểm toán là yếu tố cơ bản, nòng cốt để nâng cao chất lượng việc thực hiện kết luận và kiến nghị kiểm toán. Để làm được điều này, KTNN cần tiếp tục tăng cường công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán, thẩm định và  xét duyệt báo cáo kiểm toán; hoàn thiện mô hình tổ chức, cơ cấu bộ máy, cơ chế hoạt động, chuẩn mực, quy trình và phương pháp kiểm toán; tăng cường và kiện toàn đội ngũ cán bộ quản lý, lãnh đạo và công chức KTV Nhà nước...

Thứ hai, nâng cao chất lượng công tác kiểm tra thực hiện kiến nghị kiểm toán trong từng khâu, từng giai đoạn của quy trình kiểm tra thực hiện kiến nghị kiểm toán từ việc: Lập kế hoạch kiểm tra, thực hiện kiểm tra, tổng hợp kết quả kiểm tra, xử lý các khiếu nại về kiến nghị kiểm toán và công khai kết quả kiểm tra thực hiện kiến nghị kiểm toán. Báo cáo kiểm tra phải xác định rõ nguyên nhân của những kiến nghị chưa thực hiện, đặc biệt làm rõ nguyên nhân của việc chưa thực hiện các kiến nghị sửa đổi cơ chế, chính sách, các kiến nghị kiểm điểm, xử lý trách nhiệm tập thể, cá nhân có liên quan đến các sai phạm qua kiểm toán, các kiến nghị nhiều năm chưa thực hiện, chỉ rõ trách nhiệm của đơn vị chưa thực hiện kiến nghị kiểm toán. Kịp thời hướng dẫn, giải quyết vướng mắc trong quá trình thực hiện kiến nghị kiểm toán.

Thứ ba, nâng cao hiệu quả phối hợp các cơ quan hữu quan trong quá trình thực hiện kiến nghị kiểm toán, cụ thể:  

- Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa KTNN với Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong hoạt động giám sát thực hiện kiến nghị kiểm toán; phối hợp chặt chẽ, kịp thời với Bộ Tài chính trong quá trình tổng hợp và đối chiếu kết quả thực hiện kiến nghị kiểm toán, giải quyết khiếu nại, kiến nghị kiểm toán.

- Tăng cường sự phối hợp giữa các KTNN chuyên ngành, khu vực với các cơ quan tổng hợp của các bộ, ngành, địa phương (Cục, Vụ Kế hoạch - Tài chính, Tài vụ quản trị… của các bộ, ngành; Sở Tài chính, Cục Thuế, Hải quan tại các địa phương) trong việc theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện kiến nghị kiểm toán.

Thứ tư, kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn Luật KTNN sửa đổi năm 2019 nhằm nâng cao tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của KTNN, cụ thể: Bổ sung đối tượng nhận báo cáo kiểm toán; sửa đổi các quy định về giải quyết khiếu nại kiểm toán; nghiên cứu, sửa đổi Quy trình kiểm tra thực hiện kiến nghị kiểm toán của Kiểm toán nhà nước…

Thứ năm, Đẩy mạnh công khai kết quả kiểm toán thông qua việc đa dạng hóa các hình thức công khai, đặc biệt là việc đăng tải kết quả kiểm toán của các cuộc kiểm toán quan trọng trên các phương tiện thông tin đại chúng; thực hiện họp báo định kỳ hoặc đột suất để công khai các kết quả kiểm toán nổi bật; tăng cường tổng hợp các kết quả kiểm toán theo các chuyên đề, chủ đề về quản lý và sử dụng tài chính công, tài sản công để cung cấp thông tin kịp thời cho lãnh đạo Đảng, Nhà nước.

Thứ sáu, đẩy mạnh cải cách hành chính và ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động kiểm toán đặc biệt là ứng dụng công nghệ thông tin vào theo dõi tình hình thực hiện kết luận và kiến nghị kiểm toán.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Báo cáo kiểm toán từ năm 1994 đến năm 2019 của Kiểm toán nhà nước;
2. Hiến pháp 2013;
3. Luật Kiểm toán nhà nước 2015 và Luật KTNN sửa đổi bổ sung 2019;
4. Luật Phòng, chống tham nhũng…

[1] Khoản 8, Điều 10 Luật KTNN sửa đổi bổ sung năm 2019 và Quyết định số 1368/QĐ-KTNN ngày 02/8/2016 của KTNN quy định Danh mục các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân được KTNN gửi báo cáo kiểm toán.
[2] Khoản 2, Điều 50 Luật Kiểm toán nhà nước và Quyết định số 1562/QĐ-KTNN ngày 08/9/2016 của KTNN Quy định về công khai kết quả kiểm toán, kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của KTNN.
[3] Khoản 3, Điều 69 Luật Kiểm toán nhà nước sửa đổi bổ sung năm 2019.
[4] Khoản 6, Điều 57 Luật Kiểm toán nhà nước sửa đổi bổ sung năm 2019.
[5] Khoản 10, Điều 69 Luật Kiểm toán nhà nước sửa đổi bổ sung năm 2019.
[6] Chỉ thị số 31/CT-TTg ngày 08/11/2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc chấn chỉnh, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong việc chấp hành pháp luật về ngân sách nhà nước.
*** Bài viết được đăng trong Kỷ yếu Hội thảo "Trách nhiệm giải trình trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính Nhà nước ở Việt Nam: Những vấn đề lý luận và thực tiễn" trong khuôn khổ đề tài KH cấp Quốc gia: Công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Mã số: KX.01.41/16-20
TS. Vũ Văn Họa
Phó Tổng Kiểm toán nhà nước

Chia sẻ bài viết

Thong ke

Thông tin thời tiết

PGS.TS. Nguyễn Đức Bách

TS Nguyễn Trung Thành

ThS. Bùi Quang Đông

Tỉ giá hối đoái

Hội nghị quy hoạch tỉnh Yên Bái giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn 2050

https://essi.org.vn/