Những định hướng lớn trong xây dựng Luật Tư pháp người chưa thành niên ở Việt Nam
22:31 13/06/2024
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành sự quan tâm đặc biệt đến sự phát triển lành mạnh và toàn diện của trẻ em. Người từng nói: “Trẻ em như búp trên cành”, là mầm non, là người chủ tương lai của đất nước. Tinh thần đó đã được thể hiện trong các bản Hiến pháp của Việt Nam từ năm 1946, năm 1960 và được nhấn mạnh thêm trong các bản Hiến pháp năm 1980, năm 1992 và năm 2013. Trong những năm gần đây, trong nhiều nghị quyết, văn kiện quan trọng của Đảng, Nhà nước(1) đều xác định trẻ em được ưu tiên chăm sóc, giáo dục, bảo vệ. Đặc biệt, Chỉ thị số 28-CT/TW, ngày 25-12-2023, của Bộ Chính trị, “Về tăng cường công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” đã đề ra giải pháp “phát triển hệ thống tư pháp thân thiện và bảo vệ trẻ em”.
Sự cần thiết xây dựng, ban hành Luật Tư pháp người chưa thành niên
Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em”. Trong lĩnh vực tư pháp, việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em đã được thể chế hóa thành nhiều quy định trong các bộ luật, luật, văn bản dưới luật(2). Các văn bản này đã định hình các chính sách hình sự cơ bản theo hướng khoan hồng và một số thủ tục tố tụng, biện pháp đặc thù áp dụng đối với người chưa thành niên trong việc giám sát, giáo dục, thi hành án, tái hòa nhập cộng đồng... Một số thiết chế bảo vệ người chưa thành niên trong hoạt động tư pháp, đặc biệt là việc thành lập tòa gia đình và người chưa thành niên cũng đã phát huy hiệu quả. Tuy vậy, hệ thống pháp luật hiện hành cũng bộc lộ một số hạn chế, bất cập, cụ thể:
Một là, hệ thống hình phạt chưa phù hợp với độ tuổi, đặc điểm, tính chất hành vi phạm tội của người chưa thành niên; một số hình phạt không có sự phân hóa giữa người chưa thành niên và người trưởng thành(3); mức hình phạt tù tối đa áp dụng với người chưa thành niên vẫn còn quá nghiêm khắc; điều kiện để người chưa thành niên được tha tù trước hạn vẫn còn chặt chẽ(4);...
Hai là, các biện pháp giám sát, giáo dục đã được quy định, nhưng hầu như không được áp dụng, thiếu tính khả thi và còn nhiều bất cập; các biện pháp xử lý chuyển hướng còn ít và mang tính hình thức, thiếu cơ chế phục hồi cho người chưa thành niên;...
Ba là, một số thủ tục tố tụng hình sự chưa thực sự thân thiện, phù hợp với tâm lý lứa tuổi, khả năng nhận thức và sự phát triển của người chưa thành niên; nhiều quy định chưa bảo đảm được lợi ích tốt nhất cho người chưa thành niên; thiếu thiết chế bảo vệ người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng;...
Bốn là, chưa thiết lập được cơ chế điều phối quốc gia để giải quyết hiệu quả các vấn đề về tư pháp người chưa thành niên; chưa quy định vị trí, vai trò, trách nhiệm của nhân viên công tác xã hội trong hoạt động tư pháp người chưa thành niên.
Năm là, quy định về thi hành án, tái hòa nhập cộng đồng đối với người chưa thành niên còn nhiều hạn chế, chưa phù hợp, hiệu quả chưa cao.
Sáu là, một số quy định của Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em chưa được nội luật hóa, như quyền trợ giúp pháp lý miễn phí đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, cơ quan, tổ chức chuyên trách dành riêng cho trẻ em (mới chỉ thiết lập một phần tại tòa án - tòa gia đình và người chưa thành niên).
Bảy là, pháp luật Việt Nam về tư pháp người chưa thành niên được quy định phân tán ở nhiều đạo luật; một số quy định chưa có sự phân hóa rõ giữa người trưởng thành và người chưa thành niên.
Thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự có người chưa thành niên tham gia cho thấy: Thủ tục giải quyết còn rườm rà; thời gian giải quyết còn kéo dài; quan điểm xử lý người chưa thành niên phạm tội vẫn còn nặng về răn đe, áp dụng hình phạt mà chưa xác định việc trừng phạt chỉ nên được sử dụng như là biện pháp cuối cùng; chưa chú trọng tạo cơ hội cho người chưa thành niên phạm tội sửa chữa, cải thiện hành vi; công tác phối hợp liên ngành có lúc, có nơi còn thiếu đồng bộ, hiệu quả; nguồn lực đầu tư cho việc chăm sóc, bảo vệ người chưa thành niên trong hoạt động tố tụng chưa đáp ứng được nhu cầu;... Những hạn chế này là một trong những nguyên nhân dẫn tới thực trạng tỷ lệ người chưa thành niên vi phạm, tái phạm vẫn còn cao và có xu hướng gia tăng.
Chúng ta đều thấu hiểu rằng, người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tình cảm, nhận thức; thiếu kiến thức xã hội, pháp luật; hành động cảm tính, manh động; khó kiểm soát cảm xúc; hạn chế trong việc phòng, tránh rủi ro và các hành vi nguy hiểm. Đây là nhóm dễ bị tổn thương trong xã hội nên cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, nhất là trong hoạt động tư pháp hình sự. Do đó, chính sách về tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên cần có tiếp cận chuyên biệt, phù hợp với lứa tuổi, khả năng nhận thức của các em và hướng tới mục đích chính là giáo dục, cải tạo, giúp đỡ người chưa thành niên tự sửa chữa sai lầm, cải thiện nhận thức và hành vi, trở thành công dân tốt cho xã hội.
Bên cạnh đó, Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á, thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (UNCRC) và nhiều văn kiện quốc tế về quyền con người nói chung và quyền trẻ em nói riêng, trong đó đều khuyến nghị đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện pháp luật về tư pháp người chưa thành niên. Đặc biệt, năm 2022, Ủy ban quyền trẻ em của Liên hợp quốc đã khuyến nghị Việt Nam “xây dựng và thông qua một đạo luật toàn diện về tư pháp trẻ em, cung cấp khuôn khổ pháp lý cho hệ thống tư pháp trẻ em”. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chưa có một đạo luật riêng, toàn diện về tư pháp người chưa thành niên.
Vì vậy, cần thiết xây dựng và ban hành Luật Tư pháp người chưa thành niên nhằm: 1- Thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nội luật hóa các cam kết quốc tế; hoàn thiện pháp luật tư pháp đủ nghiêm khắc, nhưng cũng bảo đảm nhân văn đối với người chưa thành niên phạm tội; 2- Tăng cường giáo dục, hỗ trợ, giúp đỡ người chưa thành niên phạm tội tự sửa chữa lỗi lầm, cải thiện hành vi bằng áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, hạn chế tối đa việc áp dụng biện pháp mang tính chất trừng phạt, giam giữ, nhưng vẫn bảo đảm sự an toàn của cộng đồng và trật tự xã hội; 3- Xây dựng quy trình, thủ tục tố tụng thân thiện, phù hợp với độ tuổi, tâm lý và vì lợi ích tốt nhất cho người chưa thành niên; 4- Bảo đảm các quyền cơ bản của người chưa thành niên trong xử lý chuyển hướng, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và tái hòa nhập cộng đồng; 5- Thu hút, huy động nguồn nhân lực có chuyên môn về công tác xã hội; tăng cường trách nhiệm của gia đình, cơ quan, tổ chức hữu quan hỗ trợ, giám sát, giáo dục người chưa thành niên; 6- Thiết lập cơ sở giam giữ phù hợp với mục đích phục hồi, giáo dục và sự phát triển của người chưa thành niên; 7- Tăng cường cơ hội tái hòa nhập cộng đồng; xây dựng cơ chế giám sát, giáo dục, phục hồi hiệu quả, chuyên nghiệp, đơn giản, phù hợp với người chưa thành niên.
Những nội dung cơ bản cần quan tâm trong xây dựng Luật Tư pháp người chưa thành niên
Thứ nhất, giới hạn phạm vi điều chỉnh.
Luật cần giới hạn phạm vi điều chỉnh, tập trung vào quy định về xử lý chuyển hướng đối với người chưa thành niên phạm tội; hình phạt và các chính sách hình sự chuyên biệt; thủ tục tố tụng thân thiện; thi hành án và tái hòa nhập cộng đồng; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp người chưa thành niên.
Việc giới hạn phạm vi điều chỉnh của Luật như trên nhằm cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về trẻ em và người chưa thành niên; thể chế hóa Chỉ thị số 28-CT/TW của Bộ Chính trị. Điều này cũng phù hợp với định hướng lập pháp của Quốc hội về xây dựng pháp luật được Quốc hội nêu trong Nghị quyết số 89/2023/QH15, ngày 2-6-2023, về “Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023”; và bảo đảm hình thành một đạo luật chuyên biệt, toàn diện đối với người chưa thành niên, bao gồm cả chính sách hình sự đặc thù, thủ tục tố tụng thân thiện, điều kiện thi hành án phù hợp với lứa tuổi, bảo vệ các quyền cơ bản của trẻ em, bảo vệ người chưa thành niên và tạo điều kiện thuận lợi tái hòa nhập cộng đồng cho người chưa thành niên. Điều này cũng phù hợp với các chuẩn mực quốc tế và kinh nghiệm phổ biến của nhiều quốc gia đã ban hành Luật Tư pháp người chưa thành niên.
Thứ hai, quy định các nguyên tắc nhân văn, tiến bộ và đặc thù để bảo vệ người chưa thành niên trong tư pháp hình sự.
Việc xây dựng các nội dung của Luật Tư pháp người chưa thành niên cần bảo đảm các nguyên tắc, bao gồm bảo đảm lợi ích tốt nhất của người chưa thành niên; bảo đảm thủ tục tố tụng thân thiện; đối xử bình đẳng; quyền được thông tin đầy đủ, kịp thời; bảo đảm có người đại diện; giải quyết nhanh chóng, kịp thời; ưu tiên áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng; xử lý chuyên biệt; bảo đảm giữ bí mật cá nhân; quyền bào chữa, quyền được trợ giúp pháp lý, phiên dịch; hạn chế tối đa việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; chuyên môn hóa trong hoạt động tư pháp người chưa thành niên; bảo đảm và tôn trọng quyền tham gia, trình bày ý kiến; bảo đảm hiệu lực của quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng; bảo đảm việc thi hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, chấp hành án phạt tù phù hợp; hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng.
Thứ ba, xây dựng chế định xử lý chuyển hướng thay thế cho hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội.
Việc áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên chưa thực sự mang lại hiệu quả như kỳ vọng; do đó, cần đổi mới mạnh mẽ chế định này theo hướng:
Bổ sung, sửa đổi nhiều biện pháp xử lý chuyển hướng mới, phù hợp với người chưa thành niên, như khiển trách; xin lỗi bị hại; bồi thường thiệt hại; tham gia chương trình học tập, dạy nghề; tham gia điều trị và tư vấn tâm lý; thực hiện công việc phục vụ cộng đồng; cấm tiếp xúc; hạn chế khung giờ sinh hoạt, đi lại; cấm đến một địa điểm nhất định; giáo dục tại xã, phường, thị trấn; quản thúc tại gia đình; giáo dục tại trường giáo dưỡng.
Hiện nay, việc mở rộng trường hợp người chưa thành niên được áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng đã được quy định tại khoản 2, Điều 91 của Bộ luật Hình sự(5). Cần quy định chặt chẽ các điều kiện áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng để bảo đảm trật tự xã hội, an toàn cho cộng đồng.
Việc áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng cần linh hoạt và phù hợp với từng đối tượng. Khi xem xét áp dụng, phải căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; khả năng giáo dục, phục hồi của người chưa thành niên và sự an toàn của bị hại, cộng đồng. Việc lựa chọn biện pháp xử lý chuyển hướng nào để áp dụng đối với người chưa thành niên phải phù hợp với hoàn cảnh, độ tuổi, đặc điểm tâm sinh lý của người chưa thành niên. Người chưa thành niên phạm tội có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp xử lý chuyển hướng; nhưng không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng nếu tại thời điểm xem xét mà người phạm tội đã đủ 18 tuổi.
Chế định xử lý chuyển hướng cần khuyến khích người chưa thành niên chấp hành tốt để được chấm dứt trước thời hạn việc thi hành biện pháp xử lý chuyển hướng. Đối với người đang thi hành biện pháp xử lý chuyển hướng và có nhiều tiến bộ thì có thể được chấm dứt trước thời hạn việc thi hành biện pháp xử lý chuyển hướng nhằm khích lệ họ tích cực tu dưỡng, rèn luyện bản thân và nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.
Cần đổi mới trình tự, thủ tục xử lý chuyển hướng theo hướng kịp thời, hiệu quả. Cần quy định cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án đều có thẩm quyền xem xét, áp dụng các biện pháp xử lý chuyển hướng; riêng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng phải do tòa án quyết định vì liên quan đến quyền con người, đến việc hạn chế tự do của người chưa thành niên. Đặc biệt, cần quy định 2 trình tự, thủ tục khác nhau để xử lý chuyển hướng, bao gồm: 1- Trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng ngoài cộng đồng; 2- Trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng giáo dục tại trường giáo dưỡng.
Để bảo đảm nghiêm minh, cũng như nâng cao hiệu quả giáo dục người chưa thành niên, cần quy định chế tài xử lý các trường hợp vi phạm nghĩa vụ khi chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng, như: 1- Gia hạn thời hạn áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng nếu người chưa thành niên vi phạm nghĩa vụ 1 lần; 2- Thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng nghiêm khắc là biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng nếu người chưa thành niên vi phạm nghĩa vụ 2 lần trở lên; 3- Đình chỉ thi hành biện pháp xử lý chuyển hướng và kích hoạt quy trình xử lý trách nhiệm hình sự theo trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự nếu người chưa thành niên phạm tội mới.
Thứ tư, xây dựng thủ tục tố tụng thân thiện theo hướng phù hợp hơn với người chưa thành niên.
Các thủ tục tố tụng phải bảo đảm tính đặc thù, phù hợp với người chưa thành niên từ giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử, cụ thể:
Cần quy định hai thủ tục tố tụng riêng biệt đối với người chưa thành niên, trong đó: Một là, thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên bị buộc tội; hai là, thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng.
Đổi mới chế định về biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế đối với người chưa thành niên bị buộc tội, trong đó các biện pháp ngăn chặn bao gồm: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp; bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị truy nã, để tạm giam; tạm giữ; tạm giam; giám sát điện tử; giám sát tại nhà. Các biện pháp cưỡng chế bao gồm: Áp giải, dẫn giải; kê biên tài sản; phong tỏa tài khoản. Cần thu hẹp các trường hợp người chưa thành niên bị áp dụng biện pháp tạm giam(6), theo đó, người chưa thành niên chỉ bị áp dụng biện pháp tạm giam trong trường hợp thật cần thiết và khi các biện pháp giám sát khác không hiệu quả.
Bảo đảm quyền được tiếp cận nhanh chóng, kịp thời của người chưa thành niên đối với người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, trợ giúp viên pháp lý của họ. Luật sư, trợ giúp viên pháp lý của người chưa thành niên bị buộc tội được tham gia tố tụng từ khi xác minh tin báo, tố giác tội phạm. Trường hợp bắt, giữ người chưa thành niên thì họ được tham gia từ khi bắt, giữ người chưa thành niên. Biên bản lấy lời khai, hỏi cung bị can là người chưa thành niên phạm tội chỉ được xác định là chứng cứ khi có sự tham gia của luật sư, trợ giúp viên pháp lý.
Bổ sung các quy định về tố tụng thân thiện trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố. Việc tiến hành khởi tố, điều tra, truy tố đối với người chưa thành niên bị buộc tội phải được thực hiện trong môi trường thân thiện, bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, bí mật cá nhân, danh dự, nhân phẩm của họ. Đối với vụ án hình sự mà có người phạm tội là người đã thành niên và người chưa thành niên thì cơ quan điều tra phải tách thành hai vụ án để giải quyết riêng vụ án có người chưa thành niên. Thời hạn điều tra, truy tố, xét xử đối với người chưa thành niên cần được rút ngắn hơn so với vụ án hình sự thông thường. Việc lấy lời khai, khám xét người, đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói người chưa thành niên phải bảo đảm thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi và phải có sự tham gia của người đại diện hợp pháp. Các thông tin có liên quan đến hành vi phạm tội của người chưa thành niên phải được giữ kín, không cung cấp công khai. Điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, nhân viên công tác xã hội thi hành Luật Tư pháp người chưa thành niên phải có kinh nghiệm, được đào tạo, tập huấn, hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người chưa thành niên thực hiện để bảo đảm tính chuyên nghiệp.
Tiếp tục hoàn thiện các quy định về thủ tục xét xử thân thiện, trong đó việc xét xử vụ án hình sự có người chưa thành niên bị buộc tội do thẩm phán chuyên trách và tòa gia đình và người chưa thành niên tiến hành trong phòng xử án thân thiện. Khi xét xử không còng tay hoặc sử dụng các phương tiện cưỡng chế khác đối với người chưa thành niên và cho phép nhân viên công tác xã hội trình bày báo cáo điều tra xã hội đối với người chưa thành niên. Việc xét hỏi, tranh luận phải được tiến hành phù hợp với lứa tuổi, khả năng nhận thức của người chưa thành niên. Thẩm phán mặc trang phục hành chính và phải điều hành phiên tòa theo mức độ tập trung của người chưa thành niên. Phiên tòa có thể được tổ chức xét xử kín, nhưng khi tuyên án công khai chỉ tuyên phần quyết định.
Cần quy định thủ tục tố tụng thân thiện đối với người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng; hạn chế tiếp xúc giữa bị hại, người làm chứng với bị cáo; hạn chế triệu tập bị hại, người làm chứng đến tòa án và không áp dụng biện pháp dẫn giải; việc khám thân thể, chụp ảnh vết thương người bị hại phải bảo đảm quyền riêng tư, tôn trọng người chưa thành niên và được thực hiện bởi bác sĩ cùng giới tính; được trợ giúp pháp lý miễn phí; được hỗ trợ về bồi thường và chi phí để khám, điều trị theo quy định của pháp luật.
Thứ năm, đổi mới chế tài hình phạt đối với người chưa thành niên.
Hệ thống hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định trong Bộ luật Hình sự hiện hành là phù hợp, bao gồm cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và tù có thời hạn. Tuy nhiên, cần bổ sung quy định về áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với người chưa thành niên khi phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng do vô ý và có tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt. Mở rộng trường hợp người chưa thành niên bị phạt tù được cho hưởng án treo. Trường hợp người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu có tài sản riêng thì cũng có thể được áp dụng hình phạt tiền và mức phạt tiền không quá một phần ba mức tiền phạt mà điều luật quy định.
Đối với hình phạt tù có thời hạn, cần quy định theo hướng giảm mức hình phạt tù đối với người chưa thành niên, để đề cao tính nhân văn của pháp luật, nhưng vẫn bảo đảm sự nghiêm minh của chính sách hình sự đối với người chưa thành niên vi phạm. Cần nghiên cứu giảm mức hình phạt cao nhất đối với người chưa thành niên. Trường hợp người chưa thành niên phạm các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe và ma túy, như giết người, hiếp dâm, hiếp dâm người dưới 16 tuổi, cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, sản xuất trái phép các chất ma túy thì mức hình phạt là phù hợp theo quy định của pháp luật hiện hành.
Thứ sáu, về thi hành án phạt tù và tái hòa nhập cộng đồng.
Cần bổ sung các quy định về thi hành án phạt tù và tái hòa nhập cộng đồng theo hướng:
Người chưa thành niên được giam giữ tại trại giam riêng để có môi trường giáo dục, phục hồi tốt nhất; không được giam giữ chung người chưa thành niên với người đã thành niên. Trại giam người chưa thành niên được đầu tư các thiết bị giáo dục, y tế, thể thao, văn hóa... để bảo đảm các quyền cơ bản của người chưa thành niên, phù hợp với tâm sinh lý, lứa tuổi, sự phát triển của người chưa thành niên, đặc biệt là bảo đảm tối đa quyền được học tập của người chưa thành niên. Việc này cũng giúp tránh sự đầu tư dàn trải, thừa thiếu cục bộ, không hiệu quả khi đầu tư khu giam giữ riêng người chưa thành niên tại tất cả trại giam trên toàn quốc, trong khi số lượng người chưa thành niên chấp hành án tại các trại giam không lớn(7), với trình độ học vấn, đặc điểm tội phạm khác nhau làm cho công tác giáo dục, đào tạo người chưa thành niên khó thực hiện và không đáp ứng được yêu cầu riêng biệt đối với họ.
Chế độ giam giữ đối với người chưa thành niên phải tương thích với tính đặc thù của đối tượng giam giữ. Cán bộ quản giáo phải có trình độ, được đào tạo, am hiểu về tâm sinh lý người chưa thành niên hoặc đã từng tham gia các vụ việc liên quan đến người chưa thành niên. Trong quá trình giam giữ, người chưa thành niên phải được bảo đảm quyền được học tập đầy đủ; trường hợp không thể bố trí dạy và học trực tiếp thì phải phối hợp cùng trường học gần nhất với cơ sở giam giữ để tổ chức lớp học trực tuyến.
Cần mở rộng các cơ hội và hỗ trợ cho người chưa thành niên tái hòa nhập cộng đồng, như mở rộng phạm vi được tha tù trước thời hạn; cho phép thực hiện xét tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người chưa thành niên vào bất kỳ thời điểm nào trong năm thay vì định kỳ xét chung theo đợt với người đã thành niên. Thời hạn được xóa án tích đối với người chưa thành niên cần được rút ngắn một nửa so với quy định hiện hành của Bộ luật Hình sự.
Việc cấp các chứng chỉ học nghề, tốt nghiệp văn hóa cũng cần được đổi mới theo hướng giao cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp cấp chứng chỉ cho người chưa thành niên sau khi đã hoàn thành chương trình giáo dục, đào tạo để tránh kỳ thị, phân biệt đối với họ khi tái hòa nhập cộng đồng, khó tiếp tục đi học hoặc xin việc làm. Đồng thời, cần quy định doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân không được phân biệt đối xử, kỳ thị khi tuyển dụng, sử dụng người lao động là người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi trở lên vì lý do trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, thi hành án phạt tù.
Cần bổ sung nhiều biện pháp hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng không chỉ trong trường giáo dưỡng, trại giam trước khi trả tự do, mà còn quy định hỗ trợ người chưa thành niên sau khi trả tự do được tạo điều kiện học tập, học nghề, hỗ trợ việc làm cho người chưa thành niên khi đủ điều kiện; xóa bỏ thành kiến, phân biệt đối xử.
Thứ bảy, bảo đảm quyền, nghĩa vụ của người chưa thành niên.
Cần quy định rõ quyền và nghĩa vụ của người chưa thành niên bị buộc tội, như quyền có người đại diện hợp pháp trong suốt quá trình tố tụng; được bào chữa, trợ giúp pháp lý miễn phí; được sự hỗ trợ của chuyên gia y tế, tâm lý, giáo dục, xã hội học trong trường hợp cần thiết;... Người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng có quyền được sự hỗ trợ của chuyên gia y tế, tâm lý, giáo dục, xã hội học trong trường hợp cần thiết; được bồi thường thiệt hại và hỗ trợ theo quy định của Luật này và các luật khác có liên quan;... Người thi hành biện pháp xử lý chuyển hướng có các quyền, như được học tập hoặc học nghề; được tham gia chương trình tham vấn, phát triển kỹ năng sống tại địa phương; được cấp giấy chứng nhận đã chấp hành xong biện pháp xử lý chuyển hướng;...
Thứ tám, đề cao trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp người chưa thành niên.
Cần nghiên cứu thành lập Hội đồng quốc gia về tư pháp người chưa thành niên và cơ quan thường trực giúp việc cho Hội đồng quốc gia về tư pháp người chưa thành niên để thực hiện chức năng điều phối các hoạt động tư pháp và quản lý công tác xã hội về người chưa thành niên. Nâng cao vai trò, nhiệm vụ của nhân viên công tác xã hội trong hoạt động tư pháp người chưa thành niên bởi hơn ai hết họ là người hiểu rõ tâm sinh lý lứa tuổi, hoàn cảnh xã hội của người chưa thành niên và đồng thời là người hỗ trợ người chưa thành niên khi thực hiện các biện pháp chuyển hướng và tái hòa nhập cộng đồng. Bên cạnh đó, cần bổ sung nhiệm vụ cho Quỹ Bảo trợ trẻ em theo quy định của Luật Trẻ em trong việc hỗ trợ hoạt động tư pháp người chưa thành niên/.
(2) Bộ luật Hình sự; Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật Thi hành án hình sự; Luật Đặc xá; Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam; Luật Trợ giúp pháp lý; Luật Trẻ em...
(3) Ví dụ: Hình phạt cảnh cáo
(4) Ví dụ: Không cho phép được tha tù đối với người chưa thành niên khi họ phạm tội 2 lần trở lên, nếu các tội đó của người chưa thành niên thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nghiêm trọng hoặc là đồng phạm không đáng kể
(5) 1- Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật Hình sự; 2- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật Hình sự; 3- Người chưa thành niên là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án
(6) Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không bị tạm giam trong trường hợp: 1- Đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng; 2- Có khả năng bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ; 3- Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can; 4- Có dấu hiệu tiếp tục phạm tội; 5- Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
Người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi không bị tạm giam trong trường hợp: 1- Đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng; 2- Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can; 3- Có dấu hiệu tiếp tục phạm tội; 4- Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của người người này.
Người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội nghiêm trọng do vô ý, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù đến 2 năm không bị tạm giam trong trường hợp họ tiếp tục phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng
(7) Trung bình khoảng 110 em/phân trại