Mối quan hệ giữa Nhà nước - doanh nghiệp - tổ chức đại diện người lao động trong thực hiện an sinh xã hội trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
22:02 22/05/2024
1- Hiện nay, cuộc Cách mạng công nghiệp (CMCN) lần thứ tư với những bước tiến vượt bậc về khoa học, công nghệ đã và đang tác động lớn tới các quốc gia, trong đó có Việt Nam, đem đến những cơ hội và cả thách thức đối với việc thực hiện an sinh xã hội (ASXH).
Trước hết, CMCN lần thứ tư mang đến những thuận lợi đối với việc thực hiện ASXH ở nước ta.
Một là, CMCN lần thứ tư đưa lại những cơ hội việc làm mới, thúc đẩy đào tạo và tự đào tạo của công nhân Việt Nam.
Cuộc CMCN lần thứ tư với sự phát triển của internet vạn vật, dữ liệu lớn, điện toán đám mây, trí tuệ nhân tạo đã đem lại nền tảng công nghệ mới cho những công việc trước đây chưa từng có, đồng thời mở ra cơ hội lớn cho người lao động có thể tham gia đào tạo hoặc tự đào tạo để nâng cao tay nghề trên nền tảng công nghệ số ở bất cứ nơi đâu và bất cứ khi nào. Người lao động cũng có thêm cơ hội việc làm mới để nâng cao thu nhập, cũng như có thể tự nguyện tham gia bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế mà không cần trông chờ vào trợ cấp từ phía Chính phủ; qua đó, góp phần thúc đẩy mở rộng diện bao phủ của chính sách ASXH và giảm gánh nặng tài chính đối với các hoạt động bảo trợ của Chính phủ.
Hai là, công nghệ trở thành một trong những yếu tố quan trọng tạo đột phá trong hoạt động nghiệp vụ của hệ thống bảo hiểm xã hội.
Xu hướng hiện đại hóa dựa trên sự kết hợp giữa nguồn dữ liệu lớn, công nghệ di động và internet đang cho phép đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của các thành viên tham gia hệ thống ASXH. Nhờ những thành tựu của công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, người lao động có thể trực tiếp theo dõi, giám sát việc đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp của chủ sử dụng lao động cho bản thân mình; qua đó, có thể phản ánh đến các cơ quan chức năng để kịp thời phát hiện và xử lý, giúp giảm tình trạng trốn đóng, nợ đọng bảo hiểm xã hội và bảo đảm quyền lợi chính đáng cho người lao động. Ứng dụng công nghệ cũng cung cấp nhiều dịch vụ, tiện ích khác góp phần công khai, minh bạch thông tin về quá trình tham gia và thụ hưởng các chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Người lao động và doanh nghiệp có thể tiết kiệm chi phí, thời gian giao dịch trong thực hiện các thủ tục hành chính.
Đồng thời, CMCN lần thứ tư đưa đến những thách thức to lớn đối với việc thực hiện ASXH ở Việt Nam, thể hiện ở một số điểm sau:
Một là, thách thức đối với vấn đề việc làm.
Nghiên cứu mới đây của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) cho thấy, trong hai thập niên tới, khoảng 56% số người lao động tại 5 quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, có nguy cơ mất việc vì sự tham gia của robot vào quá trình sản xuất, đặc biệt là ngành dệt may(1). Trong tương lai, một số ngành sử dụng nhân công giá rẻ khác sẽ không có nhiều nhu cầu tuyển dụng công nhân. Trong khi đó, mặc dù đã có sự cải thiện, nhưng nhìn chung, nguồn lao động chất lượng cao của nước ta còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu chuyển đổi số đang diễn ra nhanh chóng hiện nay. Theo dự báo, nước ta có thể mất tới 2 triệu việc làm vào năm 2045(2).
Theo Tổng cục Thống kê, năm 2023, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên đạt 52,4 triệu người, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là 68,9%, cả nước vẫn còn 38 triệu lao động chưa qua đào tạo. Tính chung năm 2023, lực lượng lao động đã qua đào tạo có bằng, chứng chỉ ước tính là 14,1 triệu người, chiếm 27%(3). Như vậy, hiện tại, phần lớn lao động Việt Nam chưa được đào tạo bài bản về chuyên môn kỹ thuật, do đó, việc bắt kịp với cuộc CMCN lần thứ tư và tìm kiếm cơ hội việc làm là một thách thức to lớn, nhất là đối với các đối tượng yếu thế (lao động nông thôn, lao động nữ và lao động cao tuổi).
Hai là, mặt trái của công nghệ là có thể bị một số người sử dụng lao động lợi dụng để “lách luật”, trốn thuế, vi phạm hợp đồng với người lao động, thậm chí không ký kết hợp đồng lao động, nhất là với những công việc trên không gian mạng. Điều này tạo rủi ro lớn đối với người lao động.
Ba là, các công nghệ mới của CMCN lần thứ tư tạo ra sức ép phải có những đổi mới hệ thống ASXH để theo kịp tiến trình phát triển việc làm và các mối quan hệ lao động trong bối cảnh mới.
Bốn là, CMCN lần thứ tư đặt ra yêu cầu gia tăng cường độ lao động. Thực tiễn, ngày càng nhiều doanh nghiệp sử dụng các công nghệ mới của cuộc CMCN lần thứ tư để theo dõi, giám sát chặt chẽ mọi thao tác, hành vi của người lao động trong quá trình làm việc. Điều này tạo ra áp lực lớn về mặt tâm lý cho người lao động, gia tăng căng thẳng, thậm chí dẫn đến những vấn đề khủng hoảng tâm lý lao động và những tác động tiêu cực khác, có thể đe dọa đến an toàn lao động.
2- Mối quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức đại diện người lao động trong thực hiện ASXH là mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, Nhà nước là chủ thể chính xây dựng chính sách, pháp luật, kiểm tra, giám sát thực hiện ASXH cho người lao động. Doanh nghiệp là chủ thể thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tổ chức đại diện người lao động (bao gồm công đoàn cơ sở và các tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp) là chủ thể tham gia thực hiện và giám sát việc thực hiện ASXH để bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động theo đúng quy định của pháp luật.
Quan hệ giữa ba chủ thể này được biểu hiện tập trung ở quyền và nghĩa vụ của mỗi chủ thể đối với bản thân và hai chủ thể còn lại. Nhà nước quản lý thông qua hệ thống luật pháp về chính sách ASXH; giám sát và sử dụng chế tài buộc doanh nghiệp thực hiện đúng pháp luật; hỗ trợ tổ chức đại diện người lao động trong bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng cho công nhân. Doanh nghiệp thể hiện trách nhiệm với người lao động thông qua việc dạy nghề, việc làm, tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, an toàn lao động... Tổ chức đại diện người lao động là cầu nối giữa người lao động với doanh nghiệp và Nhà nước để thực hiện ASXH; cùng đại diện của Nhà nước và doanh nghiệp kiến nghị, tư vấn cho Nhà nước xây dựng chính sách ASXH phù hợp đối với người lao động. Như vậy, việc bảo đảm hài hòa mối quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức đại diện người lao động sẽ tạo cơ sở, động lực để các doanh nghiệp huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực vào sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm, thu nhập, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động; tạo điều kiện cho tổ chức đại diện người lao động thực hiện tốt chức năng bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho người lao động.
Việc đánh giá thực trạng mối quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức đại diện người lao động trong thực hiện ASXH cho người lao động ở Việt Nam chính là việc xem xét mỗi chủ thể đã thực thi vai trò của mình ra sao trong việc thúc đẩy các chủ thể còn lại tham gia thực hiện ASXH cho người lao động.
Thực tiễn ở nước ta cho thấy, thời gian qua, Nhà nước đã rà soát, sửa đổi, hoàn thiện và ban hành các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề, hỗ trợ các doanh nghiệp sử dụng lao động nữ, lao động nông thôn, lao động là thanh niên… nhằm tạo việc làm cho người lao động nói chung và các nhóm lao động đặc thù nói riêng, như ban hành Bộ luật Lao động số 45/2019/QH14, ngày 20-11-2019, Luật Thanh niên số 57/2020/QH14, ngày 16-6-2020…; các nghị định hướng dẫn thi hành một số điều của các luật, chính sách hỗ trợ tạo việc làm và quỹ quốc gia về việc làm; chiến lược quốc gia về bình đẳng giới, chính sách về hỗ trợ lao động thuộc 62 huyện nghèo đi xuất khẩu lao động, chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn, chính sách phát triển dịch vụ việc làm và thị trường lao động đều hướng tới việc hỗ trợ học nghề, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và góp phần giải quyết việc làm cho lao động nữ và lao động thanh niên. Đặc biệt, trong bối cảnh CMCN lần thứ tư, ngày 3-6-2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg, phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” với nhiều nội dung chỉ đạo công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong tiến trình chuyển đổi số.
Bên cạnh đó, chính sách tiền lương trong khu vực doanh nghiệp đã từng bước thực hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và vai trò tham gia tư vấn của tổ chức đại diện người lao động. Nhà nước giảm dần sự can thiệp hành chính, quản lý tiền lương thông qua quy định mức lương tối thiểu vùng là mức sàn thấp nhất để bảo vệ người lao động yếu thế. Mức lương tối thiểu vùng được điều chỉnh tương đối phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, khả năng của doanh nghiệp, từng bước cải thiện đời sống của người lao động. Doanh nghiệp được quyết định chính sách tiền lương theo nguyên tắc chung, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động.
Vai trò của tổ chức công đoàn trong tham gia quyết định chính sách tiền lương của doanh nghiệp từng bước được nâng lên. Nhà nước hướng dẫn, hỗ trợ nâng cao năng lực, kết nối cung - cầu và cung cấp thông tin để người lao động và người sử dụng lao động thỏa thuận. Chính sách tiền lương khu vực doanh nghiệp nhà nước được đổi mới phù hợp với chủ trương của Đảng về sắp xếp, cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, gắn với hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
Thời gian qua, tổ chức công đoàn đã chủ động nghiên cứu và tổ chức nhiều hội nghị để tập hợp trí tuệ của các nhà khoa học, các chuyên gia, cán bộ công đoàn và người lao động tham gia xây dựng, hoàn thiện hơn chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp…; từ đó, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và các cấp công đoàn đã kiến nghị với Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành chức năng kịp thời ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh chính sách, bảo đảm quyền lợi chính đáng cho đoàn viên công đoàn, người lao động. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã chủ động, phối hợp cùng các cơ quan chức năng đề nghị cơ quan thẩm quyền có giải pháp tháo gỡ khó khăn trong việc thực hiện quy định khởi kiện về bảo hiểm xã hội của các cấp công đoàn để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả trên, mối quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức đại diện người lao động trong thực hiện ASXH cho người lao động trong bối cảnh CMCN lần thứ tư còn một số hạn chế sau:
Một là, thiếu sự liên kết chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức đại diện người lao động trong đào tạo những nghề mới cho người lao động. Doanh nghiệp chưa cung cấp kịp thời, đầy đủ nhu cầu nhân lực lao động hằng năm cho cơ quan quản lý nhà nước về lao động và giáo dục nghề nghiệp theo quy định của Bộ luật Lao động, Luật Giáo dục nghề nghiệp, nên trên thực tế, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp vẫn chưa thực sự đào tạo sát nhu cầu của doanh nghiệp. Chính sự thiếu liên kết giữa các chủ thể trên đã dẫn đến công tác đào tạo nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu, cả về số lượng và chất lượng.
Hai là, tổ chức đại diện người lao động chưa thật sự nắm bắt được những thách thức mới đặt ra đối với hệ thống ASXH cho người lao động để có những kiến nghị phù hợp với Nhà nước và doanh nghiệp. Một trong những vấn đề đó là an toàn lao động. Trong cuộc CMCN lần thứ tư, nội hàm của an toàn lao động cần được bổ sung những nội dung mới liên quan đến sức khỏe thể chất và tinh thần của công nhân, như áp lực bị giám sát trong công việc, nguy cơ cao bị cô lập xã hội trong môi trường số, bệnh nghề nghiệp trong môi trường kỹ thuật số,…
Ba là, Nhà nước chưa có cơ chế, chính sách phù hợp buộc các doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ đối với người lao động trong bối cảnh cuộc CMCN lần thứ tư. Bên cạnh đó, việc bảo đảm và nâng cao cơ hội tiếp cận việc làm cho lao động cao tuổi - lực lượng thường gặp khó khăn hơn trong tiếp cận công nghệ mới chưa được chú trọng, nhất là khi nhu cầu sử dụng đối tượng lao động này của doanh nghiệp thường thấp.
3- Để giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức đại diện người lao động trong thực hiện ASXH cho công nhân trong bối cảnh mới, cần quan tâm thực hiện một số nội dung:
Một là, Nhà nước, doanh nghiệp và toàn xã hội cần đẩy mạnh việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày 24-11-2023, của Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới”, trong đó có nhóm giải pháp về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo việc làm bền vững cho người lao động cũng như bảo đảm ASXH cho toàn dân, trong đó có công nhân, người lao động.
Hai là, nâng cao nhận thức mối quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức đại diện người lao động trong thực hiện chính sách ASXH cho công nhân trong bối cảnh CMCN lần thứ tư. Phân định rõ vị trí, vai trò, chức năng của từng chủ thể trong mối quan hệ này, đồng thời có cơ chế bảo đảm quyền và nghĩa vụ của từng chủ thể được thực thi đúng trong thực tế, tạo cơ sở thực hiện tốt ASXH cho người lao động hiện nay. Trong đó, cần lưu ý vai trò định hướng có tính chất quyết định của Nhà nước đối với hai chủ thể còn lại trong thực hiện ASXH cho người lao động. Nhà nước đưa ra chính sách không chỉ bảo đảm lợi ích cho người lao động, mà còn cần tính đến lợi ích của doanh nghiệp và tính khả thi trong thực hiện của tổ chức đại diện người lao động. Doanh nghiệp phải căn cứ vào chính sách, pháp luật của Nhà nước để bảo đảm làm đúng; kết nối với tổ chức đại diện người lao động để thuận lợi trong thực hiện chính sách ASXH cho người lao động.
Ba là, đổi mới phương thức hoạt động của tổ chức đại diện người lao động trong bối cảnh cuộc CMCN lần thứ tư.
Trong thực tế, nhiều năm nay, tổ chức công đoàn đã nắm bắt được những vấn đề xảy ra tại một số doanh nghiệp ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của người lao động, như việc ký hợp đồng lao động, nội dung trong hợp đồng không đầy đủ, không cụ thể, rõ ràng, không thực hiện chế độ nâng bậc lương, không xây dựng thang bảng lương, chậm thanh toán, nợ tiền lương của người lao động… Song, tổ chức công đoàn không thể đơn phương giải quyết vấn đề đó mà phải thông qua các cơ quan quản lý nhà nước, lập đoàn kiểm tra liên ngành để kiểm tra. Vì vậy, cần giao quyền chủ động kiểm tra, giám sát, ít nhất là quyền giám sát ở một số nội dung, như việc triển khai Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở, xây dựng thỏa ước lao động tập thể và thực hiện kinh phí công đoàn… cho tổ chức công đoàn, qua đó góp phần bảo vệ tốt hơn quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người lao động.
Bốn là, nâng cao ý thức chấp hành luật pháp, trách nhiệm đối với vấn đề ASXH của doanh nghiệp. Việc nhận thức được quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức đại diện người lao động. Vì vậy, cần phải quán triệt, phổ biến sâu rộng nội dung chính sách trong các văn bản quy phạm pháp luật về ASXH cho người lao động (như mức lương tối thiểu, đào tạo nghề, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, an toàn lao động…), các hành vi bị cấm (không ký kết hợp đồng lao động, trốn đóng bảo hiểm xã hội…) và chế tài xử lý. Điều này góp phần bảo đảm doanh nghiệp thực hiện đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Năm là, cần có những nghiên cứu, đánh giá một cách đầy đủ về những tác động của cuộc CMCN lần thứ tư đến thực hiện ASXH cho người lao động hiện nay, từ đó kiến nghị Nhà nước đề ra những chính sách phù hợp, tạo cơ sở để doanh nghiệp thực hiện, tổ chức đại diện người lao động phối hợp tuyên truyền, bảo đảm ASXH cho người lao động./.
(2) Ngọc Trang: “Lao động Việt Nam đến năm 2045 có thể mất 2 triệu việc làm”, Báo Giáo dục và thời đại điện tử, ngày 17-11-2022
(3) Ngân Anh: “Năm 2023: Lực lượng lao động tăng hơn 660 nghìn người”, Báo Nhân dân điện tử, ngày 29-12-2023