Giải pháp tăng cường hiệu quả thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao

22:00 20/05/2024

Nguồn nhân lực chất lượng cao có vị trí và vai trò quan trọng đối với phát triển đất nước qua các giai đoạn. Hiện nay, việc thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao vào các cơ quan, tổ chức nhà nước còn nhiều khó khăn, hạn chế, chưa thực sự đạt được hiệu quả như mong muốn. Bài viết đề xuất một số giải pháp tăng cường hiệu quả thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao vào các cơ quan, tổ chức nhà nước đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực trong tình hình mới.

1. Đặt vấn đề

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (cách mạng 4.0) cùng xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đòi hỏi mỗi quốc gia muốn phát triển cần tiến đến nền kinh tế dựa trên tri thức, trong đó yếu tố nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao ngày càng có vai trò quyết định. 

Đảng và Nhà nước luôn nhất quán quan điểm, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình phát triển kinh tế – xã hội. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã khẳng định con người là trung tâm của sự phát triển và kiên định phát triển con người Việt Nam toàn diện: “Phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững”1 và thực hiện chủ trương: “Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế”2.

Từ chủ trương, quan điểm trên của Đảng, có thể hiểu nguồn nhân lực chất lượng cao là một bộ phận của nguồn nhân lực, lực lượng tinh túy nhất, chất lượng nhất của nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực chất lượng cao gồm những người lao động có phẩm chất, thái độ đúng, có sức khỏe thể chất, tinh thần tốt, có trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật cao hoặc kỹ năng làm việc giỏi, có năng lực sáng tạo, biết vận dụng tri thức, kỹ năng được đào tạo vào trong quá trình lao động, sản xuất, nhằm đem lại năng suất và hiệu quả cao; có những phẩm chất xã hội tốt đẹp, như: tinh thần nhân văn, tập thể, hòa nhập, thích nghi làm việc trong môi trường đa văn hóa.

Hiện nay, toàn cầu hóa diễn ra ngày càng sâu rộng, các liên kết kinh tế xuất hiện và ngày càng có nhiều ảnh hưởng, thúc đẩy sự phân công lao động sâu sắc và hình thành các chuỗi giá trị toàn cầu. Trong đó, nguồn lực con người, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao trở thành lợi thế cạnh tranh mạnh mẽ, năng động trong quá trình phát triển kinh tế. Trong bộ máy hệ thống chính trị, nguồn nhân lực chất lượng cao là lực lượng tham mưu cho Đảng và Nhà nước hoạch định chiến lược, kế hoạch, giải pháp xây dựng và phát triển đất nước và là lực lượng lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện các chiến lược, kế hoạch, giải pháp đó. Vì vậy, mỗi giai đoạn cách mạng cần có nguồn nhân lực chất lượng cao tương ứng với yêu cầu, nhiệm vụ của giai đoạn đó. Điều này đòi hỏi Nhà nước phải có quan điểm, chính sách phát triển nguồn nhân lực phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ của từng giai đoạn, đặc biệt trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII đã xác định: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài…”3.

2. Thực trạng thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao thời gian qua

Hoạt động thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đã được Đảng và Nhà nước quan tâm, nhiều chủ trương, chính sách được thể chế hóa thành pháp luật và bước đầu đã được Chính phủ và chính quyền địa phương xây dựng và ban hành thành các chính sách thu hút, đãi ngộ tích cực, có tác động to lớn trong việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước cũng nhưtừng địa phương. Lãnh đạo các cơ quan, đơn vị ngày càng nhận thức rõ trách nhiệm, quan tâm nhiều hơnđến phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và vấn đề thu hút nhân tài về làm việc. Nhân tài, nguồn nhân lực chất lượng cao khi đến tuổi nghỉ hưu, thôi giữ chức vụ quản lý được mời ở lại các cơ quan, tổ chức, đơn vị của Đảng, Nhà nước ở trung ương và địa phương tiếp tục làm việc với thời gian từ 3 – 5 năm công tác đạt tỷ lệ cao trong các năm qua.

Nhiều nhân tài là người Việt Nam ở nước ngoài đã hướng về đất nước, mong muốn góp sức trong phát triển Tổ quốc Việt Nam, tạo ra những thay đổi tích cực tại Việt Nam và đóng góp cho nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước. Đội ngũ người tài, nguồn nhân lực chất lượng cao được thu hút vào các cơ quan nhà nước đã đóng góp tích cực, nổi trội trong công tác, góp phần hình thành đội ngũ có trình độ chuyên môn giỏi, có năng lực, tư duy sáng tạo và đổi mới, tạo nguồn nhân lực chất lượng cao kế cận cho những giai đoạn tới.

Bên cạnh những kết quả bước đầu đạt được, hoạt động thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta thời gian qua cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế cần sớm được quan tâm khắc phục, cụ thể:

Về thể chế.

Việc thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao thành quy định pháp luật còn chưa đầy đủ, chưa toàn diện, chưa kịp thời. Các quy định hiện hành chưa thực sự rõ nét về cơ chế, chính sách để tạo sự thống nhất trong tổ chức thực hiện. Nội dung các văn bản của trung ương và địa phương đều nhấn mạnh đến thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao cùng với đó là đãi ngộ mà chưa đề cập đến trọng dụng nguồn nhân lực chất lượng cao. Bởi vậy, dẫn đến quan niệm chỉ cần trả lương cao và các lợi ích vật chất khác là sẽ thu hút được nguồn nhân lực chất lượng cao. 

Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, ngoài yêu cầu chung, như: thực hiện đầy đủ các yêu cầu trong công việc để có lương, nuôi sống bản thân và gia đình, còn có yêu cầu về phẩm chất, đạo đức, tư cách; đặc biệt cần phải có tinh thần cống hiến, vì Nhân dân phục vụ, không chỉ đơn giản là tiền lương, đãi ngộ. Do đó, trọng dụng và thu hút, đãi ngộ có mối liên hệ tương hỗ, phải gắn với nhau, làm nền và tạo đà cho nhau. Thu hút, đãi ngộ chỉ phát huy được tác dụng, ý nghĩa khi trọng dụng cũng được thực hiện và ngược lại. Hiện nay, trong các chính sách thu hút, ưu đãi, đã có một số bộ, ngành, địa phương tập trung vào xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, như: các cơ chế, chính sách thu hút, trọng dụng đối với sinh viên tốt nghiệp thủ khoa, tốt nghiệp loại giỏi, loại xuất sắc, các nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành, tuy nhiên chưa thực sự có sức hấp dẫn để tạo động lực cho họ sẵn sàng làm việc, sẵn sàng cống hiến.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với nguồn nhân lực chất lượng cao (sau khi thu hút về làm việc)chưa được quan tâm; chưa được đổi mới theo vị trí việc làm và theo định hướng chú trọng bồi dưỡng kỹ năng. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cần định hướng theo các tiêu chuẩn, yêu cầu chất lượng của quốc gia, vươn lên tầm khu vực và quốc tế.

Về thực hiện.

Công tác lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao còn có sự chưa thống nhất giữa các cấp, các ngành, giữa các cơ quan, tổ chức, đơn vị. Bên cạnh một số bộ, ngành, địa phương rất tích cực, quyết liệt, còn nhiều bộ, ngành, địa phương chưa chú trọng đến xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và trọng dụng nhân tài hiện có. Một số nơi còn lúng túng trong việc ban hành, tổ chức thực hiện các chính sách có liên quan.  

Cho đến nay, phần lớn các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ chưa có chính sách riêng để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao và trọng dụng đối với nhân tài theo ngành, lĩnh vực mà chỉ thực hiện theo quy định chung của pháp luật hiện hành về thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ; trọng dụng cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ. Tại các địa phương, nhiều đề án phát triển nguồn nhân lực đã được ban hành nhằm thu hút nhân tài về làm việctrong cơ quan các cấp của địa phương, tuy nhiên, tính hiệu quả, tính khả thi của nhiều đề án chưa cao.

Mặc dù Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách, cơ chế để thu hút cũng như tạo điều kiện để nguồn nhân lực chất lượng cao và nhân tài trong nước, cũng như người Việt Nam ở nước ngoàiphát huy tài năng, tâm huyết, đóng góp xây dựng quê hương, đất nước, tuy nhiên, kết quả còn hạn chế, chưa được như mong muốn. Tình trạng cán bộ, công chức, viên chức được thu hút, nhưng xin chuyển công tác sang cơ quan, đơn vị hoặc địa phương khác khi hết thời gian cam kết hoặc nghỉ việc, nhất là ở các đơn vị sự nghiệp xảy ra ở nhiều nơi. Tình trạng “chảy máu chất xám” vẫn là một thách thức to lớn trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Đất nước ta còn thiếu nguồn nhân lực có tài năng trên nhiều lĩnh vực để tạo động lực thúc đẩy cho sự phát triển nhanh và bền vững

Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế, đó là: (1) Tư duy, nhận thức về thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao chậm được đổi mới, chưa được quy định thống nhất, chưa mở rộng; (2) Hệ thống chính sách mang tính động lực, thu hút, trọng dụng, đãi ngộ chưa được hoàn thiện, thiếu tính đồng bộ, thống nhất; (3) Các quy định về thu hút, trọng dụng nhân tài mới mang tính nguyên tắc, nằm riêng lẻ trong các văn bản quản lý, nội dung các quy định chưa hợp lý, cách thức sử dụng người có tài năng sau khi được thu hút, môi trường làm việc, sự thăng tiến, chế độ đãi ngộ, tiền lương chưa được thể chế hóa; (4) Người Việt Nam ở nước ngoài còn thiếu thông tin về tình hình trong nước và các cơ hội thăng tiến, phát triển sự nghiệp tại Việt Nam; (5) Công tác tuyển dụng sinh viên mới tốt nghiệp còn nhiều bất cập, công tác bố trí, sử dụng, phân công nhiệm vụ chưa được phù hợp, chưa khoa học, chưa đúng người, đúng việc; (6) Điều kiện cơ sở vật chất, môi trường làm việc làm việc chưa đáp ứng, dẫn đến chất lượng, hiệu quả làm việc chưa cao, còn xảy ra tình trạng mâu thuẫn, mất đoàn kết. 

3. Giải pháp tăng cường hiệu quả thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao thời gian tới

Một là, đổi mới tư duy, nhận thức của cả hệ thống chính trị, nâng cao trách nhiệm trong thực hiện chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, đề cao trách nhiệm người đứng đầu các cơ quan, đơn vị trong việc thực hiện thu hút, trọng dụng và đãi ngộ. Chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao phải được thực hiện liên tục, thống nhất, công bằng, khách quan, có tính đến đặc điểm và điều kiện đặc thù của các ngành, lĩnh vực và địa phương. Cùng với đó, chú trọng công tác đánh giá, khen thưởng và chế độ đãi ngộ xứng đáng trong thực hiện nhiệm vụ, mang lại hiệu quả cho cơ quan, đơn vị.

Hai là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách đồng bộ từ phát hiện, thu hút, bồi dưỡng đến trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao. Bên cạnh đó, tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của các cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật, tránh chồng chéo trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức. Đồng thời, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động cung ứng dịch vụ công.

Ba là, đổi mới công tác tuyển dụng trên cơ sở tiêu chuẩn cụ thể đối với từng vị trí việc làm, chức vụ, chức danh, theo quy trình chặt chẽ, trách nhiệm rõ ràng, công khai, minh bạch. Thống nhất việc kiểm định chất lượng đầu vào để các cơ quan, đơn vị lựa chọn, tuyển dụng theo yêu cầu, nhiệm vụ. Rà soát, sắp xếp, bố trí người mới tuyển dụng đúng người, đúng việc theo vị trí việc làm, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong từng thời kỳ của từng cơ quan, đơn vị. Xây dựng kế hoạch dài hạn và hằng năm để đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao. Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định về đào tạo, bồi dưỡng và quản lý đào tạo, bồi dưỡng đối với nguồn nhân lực chất lượng cao đảm bảo có hiệu quảtránh lãng phí, hình thức. Xây dựng, hoàn thiện các quy định, quy chế về chế độ trách nhiệm, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, phong cách lối sống, quy tắc ứng xử, thay đổi thái độ làm việc để phục vụ lợi ích của Nhà nước, của Nhân dân. 

Bốn là, xây dựng môi trường làm việc công bằng, chuyên nghiệp, môi trường sống văn minh, hiện đại. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, đầu tư trang thiết bị, phương tiện làm việc hiện đại phù hợp yêu cầu, nhiệm vụ trong từng giai đoạn cụ thể. Xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin, bảo đảm sử dụng có hiệu quả công nghệ thông tin trong  quản lý, chỉ đạo, điều hành và trong hoạt động tác nghiệp của các cơ quan, đơn vị.

Năm là, nâng cao chất lượng đội ngũ lãnh đạo, quản lý các cấp trong việc phát hiện, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao. Tăng cường kiểm tra, thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật của các cá nhân, tổ chức trong quá trình thực hiện thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao. Xây dựng tiêu chí, tiêu chuẩn phù hợp với từng ngành, lĩnh vực chuyên môn cũng như theo chuẩn quốc tế để thu hút, trọng dụng nguồn nhân lực chất lượng cao.

Sáu là, tiếp thu có chọn lọc, vận dụng kinh nghiệm trong thu hút, trọng dụng nguồn nhân lực chất lượng cao từ lịch sử, kết hợp tham khảo kinh nghiệm của nước ngoài cũng như kinh nghiệm trọng dụng nhân tài trong khu vực doanh nghiệp và tư nhân. Tăng cường hợp tác, giao lưu, hội nhập quốc tế về nguồn nhân lực chất lượng cao. Phối hợp giữa các bộ, ngành và địa phương trong xây dựng các đề án thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao cũng như các tiêu chuẩn, điều kiện thu hút và trọng dụng nguồn nhân lực chất lượng cao.

4. Kết luận

Thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao là đòi hỏi cấp thiết của quá trình phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay. Theo đó, cần quán triệt đầy đủ các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước để sớm khắc phục những bất cập, hạn chế và triển khai các giải pháp đồng bộ, nhất quán nhằm tăng cường hiệu quả thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, mang lại nguồn lực phát triển mạnh mẽ cho đất nước trong thời gian tới.

TS. Tống Đăng Hưng
Học viện Hành chính Quốc gia
Chú thích:
1, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 94, 100, 89.
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Bá Chiến. Đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nhân lực ngành Nội vụ. Tạp chí Tổ chức nhà nước, tháng 10/2020.
2. Triệu Văn Cường. Dự án điều tra, khảo sát và đánh giá tác động của chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao trong khu vực công ở Việt Nam đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Bộ Nội vụ, 2014.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021.
4. Phạm Thị Hoa. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng hội nhập quốc tế của Việt Nam. Tạp chí Quản lý nhà nước số 326 (3/2023).
5. Ngô Sỹ Trung. Thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao trong khu vực công của thành phố Đà Nẵng. H. NXB Lao động – Xã hội, 2015.
6. Nguyễn Anh Tuấn, Lý Thị Huệ. Một số vấn đề đổi mới quản lý nhân lực của cơ quan hành chính nhà nước. Tạp chí Quản lý nhà nước số 338 (3/2024). DOI: https://doi.org/10.59394/qlnn.338.2024.786.
7. Nguyễn Tấn Vinh. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. H. NXB Lý luận chính trị, 2015.
8. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam trong điều kiện cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay. https://www.quanlynhanuoc.vn, ngày 14/3/2024.
9. Thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao vào khu vực công ở tỉnh Bình Định. https://www.quanlynhanuoc.vn, ngày 17/10/2023.
Nguồn: https://www.quanlynhanuoc.vn/

Chia sẻ bài viết

Thong ke

Thông tin thời tiết

PGS.TS. Nguyễn Đức Bách

TS Nguyễn Trung Thành

ThS. Bùi Quang Đông

Tỉ giá hối đoái

Hội nghị quy hoạch tỉnh Yên Bái giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn 2050

https://essi.org.vn/