Chính sách về việc làm tại các khu công nghiệp
16:40 18/09/2021
1. Chính sách về việc làm ở Việt Nam
Trong bối cảnh hiện nay, vấn đề giải quyết việc làm của mỗi quốc gia sẽ phải chịu áp lực của tiến trình tự do hóa thương mại, mở cửa thị trường, phải đối mặt với các vấn đề lao động không có việc làm, trình độ tay nghề của người lao động (NLĐ), chuyển dịch lao động quốc tế, các tiêu chuẩn quốc tế về việc làm,…. Do đó, nếu làm tốt công tác quản lý về việc làm sẽ giúp nâng cao vị thế, giá trị của quốc gia; khai thác được các tiềm lực sẵn có của mình để tạo cơ hội phát triển.
Tính đến nay, hệ thống pháp luật về việc làm ở Việt Nam đã tương đối hoàn chỉnh, bao hàm các chính sách liên quan về giải quyết việc làm, chính sách việc làm với thanh niên, phụ nữ,… phát triển thị trường lao động (TTLĐ), thông tin TTLĐ, dự báo TTLĐ, dự báo cung cầu lao động; hoạt động của các tổ chức dịch vụ việc làm; đề án quản lý lao động, sử dụng lực lượng lao động, lao động nước ngoài tại Việt Nam; chính sách bảo hiểm thất nghiệp,… Luật Việc làm năm 2013 đã quy định, về mặt nguyên tắc (Điều 4): Nhà nước đảm bảo quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nơi làm việc của công dân. Công dân được hưởng sự bình đẳng về cơ hội việc làm và thu nhập. NLĐ được bảo đảm làm việc trong điều kiện an toàn lao động, vệ sinh lao động. Trong đó, các chính sách về việc làm tập trung vào: (i) phát triển kinh tế - xã hội nhằm tạo việc làm cho NLĐ, xác định mục tiêu giải quyết việc làm trong chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; bố trí nguồn lực để thực hiện chính sách về việc làm; (ii) khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia tạo việc làm và tự tạo việc làm có thu nhập từ mức lương tối thiểu trở lên nhằm góp phần phát triển kinh tế - xã hội, phát triển TTLĐ; (iii) hỗ trợ tạo việc làm, phát triển TTLĐ và bảo hiểm thất nghiệp; (iv) chính sách đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia gắn với việc nâng cao trình độ kỹ năng nghề; (v) chính sách ưu đãi đối với ngành, nghề sử dụng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao hoặc sử dụng nhiều lao động phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội; (vi) Chính sách hỗ trợ người sử dụng lao động sử dụng nhiều lao động là người khuyết tật, lao động nữ, lao động là người dân tộc thiểu số (Điều 5).
Trên cơ sở các quy định của Luật Việc làm năm 2013 và Bộ luật Lao động năm 2012, Chính phủ và Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã ban hành các văn bản hướng dẫn quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các chính sách về hỗ trợ tạo và tự tạo việc làm cho NLĐ nói chung và lao động trong các khu công nghiệp (KCN) nói riêng; các chính sách bảo hiểm xã hội, an toàn vệ sinh lao động, bệnh nghề nghiệp,…. Cụ thể: Nghị định số 61/2015/NĐ-CP quy định về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm và các Thông tư hướng dẫn: Thông tư số 45/2015/TT-BLĐTBXH; Thông tư số 43/2016/TT-BLĐTHXH; Thông tư số 11/2017/TT-BLĐTBXH; Thông tư số 24/2017/TT-BLĐTBXH;… Nghị định số 85/2015/NĐ-CP ngày 1/10/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Bộ luật Lao động về chính sách đối với lao động nữ;…
Các văn bản pháp luật nêu trên đã tạo cơ sở đẩy mạnh giải quyết việc làm, hỗ trợ các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ, hỗ trợ thanh niên lập nghiệp, khởi sự doanh nghiệp; nâng cao hiệu quả công tác đào tạo nghề gắn với tạo việc làm, khuyến khích các doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề cho NLĐ; tăng cường thông tin và tuyên truyền về các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đào tạo nghề nghiệp, hỗ trợ tạo việc làm,…
Ngoài những chính sách chung được quy định trong Bộ luật Lao động, Nhà nước ta cũng ban hành thêm nhiều chính sách về lao động đối với KCN thông qua các văn bản luật và nghị định, ví dụ như: Nghị định số 82/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 quy định về quản lý KCN và khu kinh tế (KKT);…. Việc ban hành các nghị định, quyết định quy định việc quản lý của Nhà nước với các KCN nói chung và quản lý về việc làm đối với NLĐ nói riêng là hết sức cần thiết. Bởi lẽ, đây là “địa bàn” có những đặc thù riêng, thu hút lượng lớn NLĐ, quan hệ lao động phức tạp, tiềm ẩn nhiều xung đột về lợi ích…. Do đó, nếu không có các chính sách pháp luật phù hợp dễ dẫn đến bất ổn, tranh chấp lao động, mâu thuẫn lợi ích…
2. Thực hiện chính sách về việc làm tại các khu công nghiệp ở Việt Nam
Trong những năm qua, việc thực hiện chính sách về việc làm dành cho NLĐ nói chung và NLĐ trong các KCN nói riêng đã mang lại những kết quả nhất định. Tính đến hết Quý IV năm 2019, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 56,12 triệu người, nữ chiếm 47,8 % (26,82 triệu người), trong đó số lao động trong độ tuổi lao động là 49,37 triệu người. Riêng tại các KCN, theo Báo cáo của Vụ Quản lý khu kinh tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến năm 2019 có 335 KCN đi vào hoạt động tạo việc làm cho gần 3,85 triệu lao động trực tiếp[1].
Theo số liệu Điều tra nhu cầu sử dụng lao động trong các loại hình doanh nghiệp năm 2018, đến 30/6/2018 cả nước có 48.769 doanh nghiệp trong KCN, khu chế xuất, khu công nghệ cao, chiếm 7,7 % số doanh nghiệp trên cả nước và thu hút khoảng 4.369.932 lao động (chiếm 29,86% tổng số lao động làm việc trong các doanh nghiệp cả nước). Như vậy, có thể thấy, so với doanh nghiệp chung trong cả nước, tỷ lệ doanh nghiệp KCN, khu chế xuất, khu công nghệ cao chỉ chiếm 7,7% tổng số doanh nghiêp mà tỷ lệ lao động chiếm hơn 29,86% tổng số[2].
Để đạt được kết quả như trên, các cơ quan quản lý nhà nước đã triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp tạo việc làm, giải quyết việc làm cho NLĐ tại các KCN, tổ chức nhiều lớp tập huấn cho cán bộ quản lý lao động - việc làm; tổ chức tuyên truyền về chính sách trong từng KCN; tổ chức các phiên giao dịch về việc làm, xây dựng website Sàn giao dịch việc làm trực tuyến nhằm tư vấn, giới thiệu việc làm cho NLĐ….
Đồng thời, các cơ quan quản lý nhà nước cũng triển khai các giải pháp hỗ trợ, thu hút đầu tư, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong KCN duy trì sản xuất, kinh doanh, mở rộng sản xuất, đa dạng hóa ngành nghề nhằm tạo thêm việc làm mới cho lao động tại các KCN, cụ thể như sau:
Thứ nhất, việc tiếp cận chính sách về việc làm: Để bảo đảm cho người lao động tại các KCN tiếp cận pháp luật được dễ dàng, Công đoàn các KCN đã tiến hành tuyên truyền trực tiếp cho công nhân lao động về quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đây là hoạt động thiết thực, giúp công nhân nắm được những thông tin mới về chế độ chính sách.
Theo số liệu điều tra của Viện Khoa học Môi trường và Xã hội, trong tổng số 1.880 lao động tại 5 tỉnh/thành phố (Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Đà Nẵng, Đồng Nai, Bình Dương) tham gia trả lời bảng hỏi, số lao động biết đến chính sách (81%) và tiếp cận được với các chính sách về việc làm (77,7%) tại các KCN là tương đối cao. Điều này không chỉ giúp NLĐ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình đồng thời cũng giám sát quá trình thực hiện pháp luật của doanh nghiệp, công tác tổ chức quản lý của Nhà nước.
Thứ hai, về thiết lập thông tin TTLĐ: Để phục vụ cho công tác hoạch định chính sách, quản lý về lao động, việc làm, Nhà nước đã thực hiện nhiều giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thông tin TTLĐ như hoàn thiện hệ thống thông tin TTLĐ; thu thập, cập nhật, phổ biến thông tin TTLĐ; tổ chức điều tra nhu cầu sử dụng lao động trong các loại hình doanh nghiệp; thu thập, cập nhật cơ sở dữ liệu cung - cầu lao động hàng năm; thành lập bộ phận phân tích, dự báo TTLĐ; định kỳ hàng quý công bố Bản tin cập nhật TTLĐ để NLĐ có định hướng trong lựa chọn ngành nghề học tập, đào tạo, tìm kiếm việc làm.
Thứ ba, về quản lý đào tạo nghề: Hệ thống chính sách, hoạt động, mục tiêu cụ thể về giáo dục, đào tạo nghề những năm qua đã được Nhà nước ta chú trọng đầu tư, phát triển, giúp từng bước nâng cao hiệu quả đào tạo nghề cho NLĐ nói chung và đào tạo nghề cho lao động tại các KCN nói riêng. Số lượng NLĐ biết, tiếp cận và hưởng thụ các chính sách về đào tạo nghề ngày càng nâng cao.
Qua số liệu điều tra cho thấy, NLĐ phần đông đã biết đến (69%) và tiếp cận được với các quy định, chính sách đào tạo nghề (65%) cũng như đánh giá khá cao tính thuận tiện (64,3%) trong quy trình thủ tục hưởng thụ chính sách về đào tạo nghề. Đây là kết quả cho nỗ lực của các hoạt động tuyên truyền chính sách pháp luật, công tác tổ chức thực hiện chính sách.
Hiện nay, theo thống kê của Viện Khoa học Môi trường và Xã hội, nhiều ngành nghề trong các doanh nghiệp ở KCN như dệt - may, chế biến lương thực - thực phẩm, lắp ráp linh kiện điện tử… thường có xu hướng sử dụng lao động giản đơn, tay nghề thấp, chưa qua đào tạo. Vì vậy, những dịch vụ đào tạo nâng cao trình độ tay nghề cho NLĐ chưa xuất hiện trong các doanh nghiệp trong KCN thường đầu tư công nghệ trung bình nên không đòi hỏi tay nghề cao, không có sự phân biệt lớn về kỹ năng giữa công nhân lâu năm và công nhân mới vào nghề.
Mặt khác, công tác thu thập thông tin về lao động, việc làm còn chưa hiệu quả, kịp thời do những hạn chế về nhân lực, tài chính, phương tiện điều tra cũng như sự chồng chéo, chưa rõ ràng trong phân công trách nhiệm quản lý. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật thông tin chưa hoàn thiện, dẫn đến chưa có sự kết nối, chia sẻ thông tin giữa các cơ quan, các vùng miền để xây dựng hệ thống thông tin chung của quốc gia. Hoạt động phân tích và dự báo TTLĐ còn yếu kém, chưa hiệu quả, chưa sát với thực tế cụ thể là chức năng dự báo nhu cầu lao động tại các KCN của Ban quản lý các KCN. Trong khi đó, biên chế của Ban quản lý chưa đáp ứng được cả về số lượng cũng như chất lượng chuyên môn dẫn tới gây khó khăn cho việc hoạch định các chính sách phát triển TTLĐ nói chung, chính sách phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm nói riêng tại các KCN. Số lượng trung tâm dịch vụ việc làm tại các KCN chưa nhiều, chưa đáp ứng được việc hỗ trợ kết nối giữa doanh nghiệp, nhà tuyển dụng với NLĐ.
Đồng thời, công tác tổ chức thực hiện chính sách đào tạo nghề trên thực tiễn đang gặp phải một số vướng mắc về quy định trách nhiệm hoàn trả chi phí đào tạo nghề của NLĐ với người sử dụng lao động, các tiêu chuẩn về sử dụng cán bộ doanh nghiệp làm cán bộ đào tạo nghề… Ngoài ra, các cơ sở đào tạo nghề còn đang yếu, thiếu về trang thiết bị đào tạo, phương thức và giáo trình đào tạo lạc hậu, cơ cấu ngành nghề đào tạo chưa bám sát yêu cầu của thị trường lao động; chưa có cơ chế, mô hình gắn kết giữa các cơ sở đào tạo nghề với các doanh nghiệp. Những bất cập này khiến lao động khó tìm kiếm việc làm; ngược lại, sau khi tuyển dụng lao động, các doanh nghiệp phải tổ chức đào tạo lại.
3. Khó khăn, thách thức, giải pháp hoàn thiện chính sách về việc làm tại các khu công nghiệp
Hiện nay, chính sách về việc làm tại các KCN ở nước ta đang đối mặt với những khó khăn, thách thức sau:
Một là, hệ thống chính sách pháp luật về việc làm còn tồn tại nhiều điểm bất hợp lý, dẫn dến tình trạng NLĐ không tiếp cận được với các chính sách hỗ trợ của Nhà nước; các cơ quan nhà nước khó triển khai đồng bộ các giải pháp do tính chất đặc thù của các KCN và chưa tạo được sự bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp. Phạm vi bao phủ của các chính sách việc làm còn hạn chế; các chính sách kinh tế thường thiếu định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành gắn với nhu cầu lao động và đào tạo lao động tương ứng,… dẫn đến tình trạng mất cân đối cung - cầu lao động cục bộ diễn biến phức tạp.
Hai là, các chính sách về việc làm còn thiếu tính thực tiễn, chưa bảo đảm tính bền vững, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội …. Đặc biệt, còn thiếu các chính sách riêng nhằm đẩy mạnh tạo việc làm cho lao động nữ, lao động thanh niên, các nguồn lực hỗ trợ thanh niên lập nghiệp,… dẫn đến chất lượng lao động hạn chế, năng suất lao động thấp, chất lượng việc làm chưa cao và hiệu quả tạo việc làm còn thấp, nhất là đối với lao động nữ.
Ba là, tổ chức bộ máy và việc phân quyền, cấp quyền cho các cơ quan quản lý về việc làm còn chưa hiệu quả, hợp lý; chưa chú trọng đến việc phân quyền quản lý cho các cơ quan quản lý trực tiếp như Ban quản lý các KCN. Ban Quản lý (BQL) có vai trò vô cùng quan trọng: phối hợp hướng dẫn, theo dõi thực hiện các chính sách, pháp luật và những vấn đề liên quan về lao động của doanh nghiệp trong KCN; phối hợp với Trung tâm giới thiệu việc làm KCN xây dựng và thực hiện kế hoạch, chương trình về nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu lao động của các KCN; hướng dẫn xây dựng, tiếp nhận nội quy lao động, thỏa ước lao động tập thể của doanh nghiệp trong KCN; tiếp nhận khai trình việc sử dụng lao động, báo cáo tình hình thay đổi về lao động trong các doanh nghiệp trong KCN theo ủy quyền. Ngoài ra, BQL còn có trách nhiệm trong việc giải quyết một số thủ tục liên quan đến người lao động nước ngoài như tiếp nhận giải quyết báo cáo giải trình nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài đối với từng vị trí công việc; cấp, cấp lại, thu hồi Giấy phép lao động cho người lao động nước ngoài làm việc KCN; xác nhận người lao động nước ngoài làm việc trong KCN không thuộc diện cấp giấy phép lao động;… Tuy nhiên, Nghị định số 82/2018/NĐ-CP chưa quy định rõ trách nhiệm của UBND cấp tỉnh và cơ quan có thẩm quyền trong việc ủy quyền cho các Ban Quản lý Khu công nghiệp, Khu kinh tế thực hiện một số nhiệm vụ, dẫn tới cùng một nhiệm vụ nhưng có nơi Ban Quản lý Khu công nghiệp, Khu kinh tế được ủy quyền, có nơi chưa được ủy quyền, tùy thuộc vào quan điểm của từng địa phương. Bên cạnh, các Ban Quản lý Khu công nghiệp, Khu kinh tế vẫn không có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính dẫn tới hiệu quả quản lý nhà nước Khu công nghiệp, Khu kinh tế chưa cao.
Bốn là, chưa có cơ chế phối hợp hoạt động giữa các cơ quan nhà nước, các địa phương trong xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin về việc làm, trong việc phối kết hợp giữa doanh nghiệp với Nhà nước về đào tạo nghề. Các số liệu thống kê chưa thực sự đầy đủ, độ tin cậy chưa cao. Các dữ liệu được lưu giữ thủ công, thô sơ và chủ yếu trên sổ sách dẫn đến sự khó khăn trong việc tìm kiếm thông tin việc làm của người lao động. Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho việc thu thập, cung cấp thông tin về việc làm còn lạc hậu. Thiếu khả năng kết hợp thông tin từ nhiều nguồn khác nhau.
Năm là, các trung tâm dịch vụ việc làm chưa phát huy được vai trò kết nối cung cầu lao động; ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động dịch vụ việc làm còn hạn chế; chưa có sự gắn kết để trở thành một hệ thống kết nối trên phạm vi toàn quốc. Tần suất, phạm vi các hoạt động giao dịch việc làm chủ yếu ở khu vực thành phố và các khu vực có đông người lao động, do vậy năng lực của hệ thống các trung tâm dịch vụ việc làm không phát huy được tối đa năng lực của mình.
Sáu là, chế tài xử lý cũng như hoạt động thanh tra, kiểm tra các sai phạm về việc làm còn thiếu tính hợp lý, chặt chẽ, tính triệt để dẫn tới các doanh nghiệp chưa chấp hành nghiêm. Nhiều doanh nghiệp không có quy chế tuyển dụng, thông báo tuyển dụng, không ký hợp đồng lao động, thử việc người lao động không đúng quy định, hợp đồng lao động đã ký chỉ ghi chung chung, không thể hiện quyền lợi, nghĩa vụ của người sử dụng lao động và người lao động,… Do vậy, người lao động nói chung và người lao động trong các khu công nghiệp nói riêng khó tiếp cận được các chính sách ưu đãi.
Hiện nay, công tác quản lý việc làm nói chung và việc làm tại các KCN đang chịu sự tác động rất lớn từ sự phát triển nhanh chóng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; từ các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới; từ xu hướng hội nhập quốc tế,… Để thích ứng, đối phó với những thách thức mới đó, chúng tôi đề xuất một số giải pháp sau đây:
Thứ nhất, cần xây dựng các chính sách phát triển kinh tế; quy hoạch phát triển các KCN theo hướng bền vững, ưu tiên phát triển các ngành kinh tế có trình độ kỹ thuật, công nghệ cao; hạn chế các ngành kinh tế đơn giản, thủ công, thông dụng lao động để giải quyết vấn đề việc làm một cách bền vững. Mặt khác, Chính phủ cần hoàn thiện chính sách thu hút đầu tư vào các KCN để có thể nâng cao được chất lượng người lao động và chất lượng việc làm cho người lao động trong các KCN, với các nội dung chủ yếu sau:
(i) Xây dựng và hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội nói chung, và công nghiệp nói riêng của các địa phương để các địa phương lấy đó làm căn cứ khoa học và định hướng để quy hoạch phát triển các KCN. Các quy hoạch này cần phù hợp với Chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội và công nghiệp chung, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và công nghiệp chung của cả nước cũng như cần bám sát điều kiện và nhu cầu cụ thể của từng địa phương;
(ii) Phê duyệt quy hoạch phát triển các KCN trên phạm vi cả nước trên cơ sở lấy hiệu quả kinh tế, xã hội làm thước đo. Các KCN đó cần gắn chặt và cần được đặt trong chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội của vùng và địa phương, để KCN có thể phát huy được sức lan tỏa và vai trò của một cực tăng trưởng;
(iii) Cần kiên quyết ưu tiên cho các DN đầu tư vào các ngành và lĩnh vực thâm dụng chất xám, sử dụng công nghệ cao, các dây chuyền và công đoạn sản xuất có giá trị gia tăng cao, tiêu hao ít nguyên nhiên liệu và phát thải thấp.
Thứ hai, sử dụng hợp lý nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, các nguồn tài trợ nước ngoài, nguồn vốn xã hội hóa cho các hoạt động đào tạo nghề; hỗ trợ giải quyết việc làm; lồng ghép chính sách việc làm công trong các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội, ...
Việc tạo điều kiện, cơ chế chính sách cho huy động, phát triển nguồn lực tài chính cho đào tạo nghề, hỗ trợ giải quyết việc làm giúp khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia nhằm thu hút nguồn lực tài chính hỗ trợ cho công tác đào tạo nghề và tìm kiếm đầu ra cho người học nghề. Để thu hút được các nguồn xã hội hóa, bản thân các cơ sở đào tạo phải đổi mới chương trình đào tạo, đổi mới cách tiếp cận trong việc tổ chức đào tạo, đào tạo gắn với doanh nghiệp, gắn với thị trường lao động. Nhờ đó mới thu hút được nguồn vốn ngoài ngân sách, từ các doanh nghiệp, đặc biệt là các nguồn đầu tư vào đa dạng hóa các nguồn lực tài chính cho đào tạo nghề, hỗ trợ giải quyết việc làm trong bối cảnh ngân sách nhà nước ngày càng khó khăn.
Thứ ba, sửa đổi, hoàn thiện hệ thống pháp luật về việc làm, khắc phục những tồn tại trong các quy định đã ban hành, đặc biệt là các quy định thanh kiểm tra, xử lý; đảm bảo NLĐ tiếp cận được với các quy định, hỗ trợ của Nhà nước; là yếu tố pháp lý hiệu quả để các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng quản lý về việc làm. Mặt khác, cần tạo cơ chế giám sát, điều chỉnh, xử lý để các doanh nghiệp trong khu công nghiệp luôn tuân thủ pháp luật, đồng thời tạo cơ chế để doanh nghiệp chủ động tham gia hợp tác với các cơ sở dạy nghề trong đào tạo nhân lực và cung cấp nhân lực theo yêu cầu của chính doanh nghiệp. Hướng dẫn các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp, khu kinh tế trên địa bàn thực hiện tốt các chính sách về tiền lương, bảo hiểm xã hội, đào tạo nghề cho người lao động.
Thứ tư, nâng cao chất lượng đào tạo nghề; chất lượng hệ thống thông tin TTLĐ; của các trung tâm dịch vụ việc làm bằng việc đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị; hạ tầng công nghệ thông tin; đầu tư nguồn nhân lực, cán bộ quản lý được đào tạo chuyên sâu, có trình độ; cải thiện công tác dự báo nhu cầu lao động theo hướng bám sát vào thực tiễn, dễ tiếp cận, có tính liên kết vùng miền, quốc gia…
Thứ năm, cải cách quy trình, thủ tục hành chính liên quan đến vấn đề việc làm theo hướng rút gọn, đơn giản hóa, cơ chế một đầu mối, một cơ quan quản lý… tạo điều kiện thuận lợi cho NLĐ, doanh nghiệp… Nghiên cứu, xây dựng phần mềm công nghệ thông tin để các doanh nghiệp thuận tiện trong việc thực hiện chế độ báo cáo đối với Ban quản lý khu công nghiệp và Sở Lao động - Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố.
Thứ sáu, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền quản lý cho chính quyền địa phương, Ban quản lý các KCN để đảm bảo hiệu quả quản lý cũng như giá trị thực tiễn, phù hợp tới từng địa phương, từng KCN. Tại các địa phương, thống nhất một đầu mối theo dõi, quản lý nhà nước về hoạt động của KCN. Cơ quan này phải được tăng cường chức năng, nhiệm vụ toàn diện, ổn định, bảo đảm đủ thẩm quyền và nguồn lực để quản lý các KCN theo hướng “một cửa, một đầu mối”, tương xứng với vai trò, vị trí ngày càng quan trọng của các KCN trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ngoài ra, cần quy định thêm chức năng, vai trò giám sát, thanh tra, kiểm tra xử phạt của Ban Quản lý với các sai phạm của các doanh nghiệp, các cá nhân, các tổ chức. Đồng thời, cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa hoạt động của Ban quản lý với các ban ngành, chức năng của địa phương, nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Quản lý.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Anh Tuấn, Tạo việc làm cho người lao động qua vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp vào Việt Nam, Luận án tiến sỹ, Đại học Kinh tế quốc dân, 1999.
2. Cục Việc làm (2018), số liệu “Điều tra nhu cầu sử dụng lao động trong các loại hình doanh nghiệp năm 2018”, Hà Nội.
3. Tổng cục Thống kê, Bản tin cập nhật thị trường lao động Việt Nam, số 24, Quý IV/2019.
4. Các KCN, KKT Việt Nam: Phát triển vững mạnh năm 2019, idico.com.vn.
[1] Các KCN, KKT Việt Nam: Phát triển vững mạnh năm 2019, idico.com.vn.
[2] Cục Việc làm (2018), số liệu “Điều tra nhu cầu sử dụng lao động trong các loại hình doanh nghiệp năm 2018”, Hà Nội.
(Nguồn: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 16 (416), tháng 8/2020)