Chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em – thực trạng và giải pháp
09:24 02/06/2024
1. Đặt vấn đề
Trẻ em là lớp công dân “đặc biệt”, là nguồn lực tương lai của đất nước. Công tác chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm và là một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu trong việc bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và bền vững. Những năm qua, công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ đã em đạt được những kết quả tích cực và được cộng đồng quốc tế đánh giá cao về cam kết và thực hiện Công ước Liên hiệp quốc về quyền trẻ em, các công ước, điều ước quốc tế có liên quan, các mục tiêu thiên niên kỷ và mục tiêu phát triển bền vững về chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em. Đồng thời, công tác phối hợp giữa các ban, bộ, ngành, đoàn thể, giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em ngày càng chặt chẽ, hiệu quả vì mục tiêu phát triển đất nước.
2. Những thành tựu trong công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em
Những năm qua, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị từ trung ương đến địa phương, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, kiến thức, kỹ năng về chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em được quan tâm; thường xuyên đổi mới, cập nhật về nội dung bảo đảm phù hợp với các nhóm đối tượng và sự đa dạng trong phương thức tuyên truyền. Bằng những nỗ lực này đã tạo những chuyển biến tích cực về nhận thức, ý thức và trách nhiệm trong cả hệ thống chính trị, xã hội, cộng đồng, gia đình đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em.
Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật, chính sách về trẻ em đã được sửa đổi, bổ sung kịp thời đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã có quy định mới về xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và trẻ em là nạn nhân của tội phạm. Nhìn chung, quy định về trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi, bổ sung nhiều quy định mới về biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính đối với trẻ em, người chưa thành niên. Tất cả trẻ em đều thuộc diện được trợ giúp pháp lý miễn phí dưới các hình thức tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng và đại diện ngoài tố tụng trong tất cả các vụ việc.
Hệ thống pháp luật về nuôi con nuôi đã tương đối hoàn thiện, là công cụ hữu hiệu để thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực nuôi con nuôi; đồng thời, là căn cứ pháp lý quan trọng để bảo đảm quyền và lợi ích của trẻ em. Đặc biệt, Luật Trẻ em năm 2016 và Công ước quốc tế về quyền trẻ em là những văn bản quan trọng bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện quyền chăm sóc, bảo vệ và phát triển toàn diện trẻ em. Chính sách, pháp luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em đã được sửa đổi, bổ sung để ngày một hoàn thiện hơn Quyết định số 55a/2013/QĐ-TTg ngày 04/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ phẫu thuật tim cho trẻ em bị bệnh tim bẩm sinh; Quyết định số 1437/QĐ-TTg ngày 29/10/2018 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án chăm sóc vì sự phát triển toàn diện trẻ em trong những năm đầu đời tại gia đình và cộng đồng giai đoạn 2018 – 2025; Quyết định số 1863/QĐ-TTg ngày 23/12/2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch hành động phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em giai đoạn 2020 – 2025; Chỉ thị số 28-CT/TW ngày 25/12/2023 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ là trẻ em có thẻ bảo hiểm y tế thuộc hộ gia đình nghèo, hộ gia đình cận nghèo và thuộc diện hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội hằng tháng theo quy định của pháp luật. Đây chính là minh chứng khẳng định những nỗ lực của Đảng và Nhà nước ta nhằm tăng cường công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em những thế hệ tương lai của đất nước.
Song song với các hoạt động, nhiều bộ, ngành đã ban hành các quyết định, chương trình nhằm bảo đảm sự phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần cho trẻ em. Quyết định số 2729/QĐ-BYT ngày 04/6/2021 của Bộ Y tế về việc phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về chăm sóc sức khỏe sinh sản, tập trung chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ giai đoạn 2021 – 2025 đề ra mục tiêu: (1) Giảm tỷ suất tử vong sơ sinh xuống dưới 9‰, trong đó vùng khó khăn xuống 15‰; (2) Giảm tỷ suất tử vong trẻ dưới một tuổi xuống còn 12,5‰, trong đó vùng khó khăn xuống còn 19,5‰; (3) Giảm tỷ suất tử vong trẻ dưới 5 tuổi xuống còn 18,5‰, trong đó vùng khó khăn xuống còn 29,5‰; (4) Giảm tỷ lệ trẻ sơ sinh có cân nặng dưới 2.500 gram xuống dưới 8%, trong đó vùng khó khăn xuống còn 10,5%; (5) Tăng tỷ lệ trẻ sơ sinh được thực hiện chăm sóc sơ sinh thiết yếu sớm đạt 75%, trong đó vùng khó khăn đạt 80%; (6) Giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi xuống còn 18,5%, trong đó vùng khó khăn xuống dưới 28%1.
Ngày 29/06/2023, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Dự thảo Nghị định quy định chính sách cho trẻ em nhà trẻ, học sinh, học viên ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo và cơ sở giáo dục có trẻ em nhà trẻ, học sinh hưởng chính sách, bao gồm:
(1) Chính sách đối với trẻ em nhà trẻ bán trú. Hỗ trợ tiền ăn bữa chính, bữa phụ, mỗi trẻ em nhà trẻ được hỗ trợ 360.000 đồng/tháng và được hưởng không quá 9 tháng/năm học.
(2) Chính sách đối với học sinh bán trú và học viên bán trú. Hỗ trợ tiền ăn, mỗi học sinh, học viên được hỗ trợ 900.000 đồng/tháng và được hưởng không quá 9 tháng/năm học; hỗ trợ tiền nhà ởvới mỗi học sinh, học viên phải tự túc chỗ ở do nhà trường không thể bố trí chỗ ở trong trường hoặc do cần có sự hỗ trợ, chăm sóc đặc biệt của người thân (sức khỏe yếu, khuyết tật, nhỏ tuổi) được hỗ trợ 360.000 đồng/tháng và được hưởng không quá 9 tháng/năm học; hỗ trợ gạo với mỗi học sinh, học viên được hỗ trợ mỗi tháng 15 kg gạo/người và được hưởng không quá 9 tháng/năm học. Học sinh, học viên năm cuối cấp trung học phổ thông được hưởng chính sách nêu trên đến tháng thi tốt nghiệp nhưng không quá 10 tháng/năm học; học sinh bán trú có học tăng cường tiếng Việt trước khi vào học lớp 1 được hưởng thêm 1 tháng.
Đặc biệt với các chương trình, như: chương trình sức khỏe học đường góp phần nâng cao sức khỏe, tầm vóc cho trẻ em; Chương trình phòng, chống tai nạn, thương tích trẻ em; Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em. Mặt khác, công tác trợ giúp xã hội đột xuất đã bao phủ các nhóm đối tượng cần hỗ trợ, bảo đảm người dân khi gặp rủi ro, thiên tai, trong đó trẻ em có bố mẹ bị mất tích và không có nơi nương tựa được hỗ trợ kịp thời.
Theo số liệu thống kê, năm 2021, trẻ em mồ côi được nuôi dưỡng tập trung trong các cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội là 42,1%, tỷ lệ trẻ em dưới 16 tuổi sống trong các hộ gia đình nhận được trợ giúp xã hội là 43,5%2. Đồng thời, đã hỗ trợ, can thiệp trẻ em bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị bạo hành, bóc lột, bỏ rơi và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định:
(1) Vẫn còn khoảng trống trong hệ thống pháp luật liên quan đến trẻ em, thiếu quy định điều chỉnh một số lĩnh vực thiết thực đối với trẻ em và các nhóm yếu thế, như phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, công tác xã hội. Đồng thời, chưa có chính sách cụ thể ưu tiên đầu tư ngân sách, nhân lực, quỹ đất cho thực hiện quyền trẻ em, đặc biệt cho công tác bảo vệ, phòng ngừa xâm hại, tai nạn, thương tích trẻ em. Mặt khác, mạng lưới thiết chế văn hóa, thể thao dành cho trẻ em chậm được quy hoạch, và chưa có sự thống nhất trong các quy định về chăm sóc, giáo dục, bảo vệ và quyền trẻ em.
(2) Việc tiếp cận các chương trình trợ giúp về an sinh xã hội, cung cấp dịch vụ xã hội và bảo vệ trẻ em nghèo, trẻ em thuộc các nhóm yếu thế còn gặp nhiều khó khăn. Ở miền núi, vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn tình trạng trẻ em bị suy dinh dưỡng thể thấp còi, nhất là tình trạng thiếu vi chất… (có khoảng 1/3 trẻ em dân tộc thiểu số thiếu dinh dưỡng, thể chất thấp còi, tỷ lệ này cao gấp 2 lần so với trẻ em người Kinh)3.
(3) Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, kiến thức về quyền trẻ em, bảo vệ trẻ em, giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em ở cơ sở có nơi, có lúc thực hiện chưa hiệu quả. Đặc biệt là công tác phòng, chống bạo lực, xâm hại tình dục tình dục tại một số địa phương, trường học chưa được quan tâm đúng mức. Tình trạng xâm hại tình dục, bạo hành trẻ em vẫn còn có chiều hướng diễn biến phức tạp tăng về số vụ và về đối tượng trẻ em.
3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong giai đoạn tới
Một là, tập trung rà soát, sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật về chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em, tạo môi trường pháp lý thuận lợi trong việc thực hiện quyền trẻ em, giải quyết các vấn đề về trẻ em, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Đồng thời, các bộ, ngành, địa phương, cần tập trung ưu tiên giải quyết các vấn đề, vụ việc về trẻ em như bạo lực, xâm hại trẻ em, tai nạn thương tích ở trẻ em để các quyền trẻ em được bảo đảm thực hiện, giải quyết một cách tích cực và bền vững.
Thực hiện có hiệu quả quy chế phối hợp liên ngành về bảo đảm quyền trẻ em; đồng thời, có cơ chế khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp tham gia cung cấp dịch vụ công về chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em, đầu tư phát triển các cơ sở vui chơi, giải trí, sản phẩm văn hóa dành cho trẻ em.
Hai là, củng cố bộ máy quản lý nhà nước, hệ thống an sinh xã hội và cung cấp dịch vụ xã hội cho trẻ em, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả. Đồng thời, nghiên cứu thành lập mô hình tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về gia đình, trẻ em và bình đẳng giới để giải quyết ngày càng hiệu quả hơn công tác gia đình, phụ nữ và trẻ em trong tình hình mới.
Ba là, phát triển hệ thống phúc lợi xã hội, cung cấp dịch vụ xã hội cho trẻ em từ sớm, liên thông, toàn diện, chất lượng và hiệu quả, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo. Chú trọng dịch vụ chăm sóc phát triển toàn diện cho trẻ trong những năm đầu đời để giảm nhanh tỷ lệ suy dinh dưỡng và tử vong ở trẻ, nhất là trẻ em vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Xây dựng cơ chế thúc đẩy các doanh nghiệp, tổ chức tham gia xây dựng các công trình phúc lợi, cung cấp dịch vụ xã hội, hỗ trợ trẻ em nghèo, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, mồ côi, trẻ em di cư.
Tập trung giáo dục đạo đức, lối sống, ý thức trách nhiệm, ý chí và khát vọng vươn lên cho trẻ em; đồng thời, triển khai chương trình tư vấn tâm lý và giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ, thống nhất giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em. Đồng thời, tăng cường công tác phòng, chống xâm hại trẻ em, hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, bị ảnh hưởng bởi thiên tai, dịch bệnh.
Đầu tư xây dựng cơ sở y tế, giáo dục, điểm vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể thao cho trẻ em, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo.
Bốn là, củng cố, phát triển đội ngũ làm công tác bảo vệ trẻ em cấp xã, cộng tác viên bảo vệ trẻ em ở cộng đồng dân cư. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, đổi mới phương thức quản lý, điều hành, phối hợp, bảo đảm khoa học, chặt chẽ, hiệu quả. Tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra việc bảo đảm thực hiện quyền trẻ em và giải quyết các vấn đề về trẻ em. Kiên quyết xử lý các hành vi xâm hại, bạo lực, lôi kéo, buôn bán, gây nguy hại đến trẻ em. Xây dựng, hoàn thiện cơ sở dữ liệu về trẻ em liên thông với cơ sở dữ liệu quốc gia và các chuyên ngành.
Năm là, tăng cường rà soát toàn diện các quỹ từ thiện, quỹ xã hội, cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng hỗ trợ trẻ em bảo đảm hoạt động đúng theo quy định của pháp luật. Thực hiện tốt vai trò, trách nhiệm giám sát, phản biện xã hội trong bảo đảm thực hiện quyền trẻ em và giải quyết các vấn đề về trẻ em. Đồng thời, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức của mọi người dân về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em đối với sự phát triển bền vững đất nước, xây dựng hệ giá trị con người, gia đình và hệ giá trị quốc gia, dân tộc.
Sáu là, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, huy động sự tham gia, đóng góp, hỗ trợ nguồn lực, kinh phí của các tổ chức trong và ngoài nước, đặc biệt trong việc sản xuất và cung ứng các vi chất dinh dưỡng cho phụ nữ có thai và trẻ em.
1. Quyết định số 2729/QĐ-BYT ngày 04/6/2021 của Bộ Y tế về việc phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về chăm sóc sức khỏe sinh sản, tập trung chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ giai đoạn 2021 – 2025.
2. Tổng cục Thống kê. Điều tra các mục tiêu phát triển bền vững về trẻ em và phụ nữ 2020 – 2021.
3. Bảo đảm chế độ dinh dưỡng cho trẻ em dân tộc thiểu số. https://xaydungdang.org.vn, ngày 13/01/2024.
Tài liệu tham khảo:
1. Chỉ thị số 28-CT/TW ngày 25/12/2023 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
2. Luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
3. Luật Trẻ em năm 2016.
4. Quyết định số 55a/2013/QĐ-TTg ngày 04/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ phẫu thuật tim cho trẻ em bị bệnh tim bẩm sinh.
5. Quyết định số 1438/QĐ-TTg ngày 19/10/2018 về phê duyệt Đề án hỗ trợ trẻ em khuyết tật tiếp cận các dịch vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em tại cộng đồng giai đoạn 2018 – 2025.
6. Quyết định số 1660/QĐ-TTg ngày 02/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình Sức khỏe học đường giai đoạn 2018 – 2025.
7. Bảo đảm quyền được giáo dục của trẻ em theo quy định của pháp luật hiện nay. https://www.quanlynhanuoc.vn, ngày 05/8/2021.
8. Giải pháp phòng, chống xâm hại và bảo vệ quyền trẻ em hiện nay. https://www.quanlynhanuoc.vn, ngày 16/5/2024.
9. Giải pháp xây dựng và thực thi chính sách phát triển nguồn nhân lực trẻ ở Việt Nam hiện nay. https://www.quanlynhanuoc.vn, ngày 09/4/2024.
10. Tăng cường bảo vệ trẻ em trước nguy cơ bị xâm hại tình dục hiện nay. https://www.quanlynhanuoc.vn, ngày 14/3/2024.
Học viện Cảnh sát nhân dân