Pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về trách nhiệm giải trình trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay

18:21 10/08/2021

Để làm sáng tỏ vấn đề công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cần thiết phân tích trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước và đặt nó trong mối quan hệ với việc thực hiện nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước – được quy định là một trong những nội dung mới của Hiến pháp 2013 (Điều 3). Trong nội dung nghiên cứu này, bên cạnh việc nêu quan điểm về trách nhiệm giải trình, giới hạn vấn đề cần giải quyết, tác giả tập trung phân tích các quy định của pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về trách nhiệm giải trình trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay trên ba phương diện cụ thể như (1) nêu và phân tích các quy định của pháp luật về công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình trong lĩnh vực tư pháp; (2) nêu và phân tích thực trạng về công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình trong lĩnh vực tư pháp và (3) đề xuất các giải pháp, kiến nghị về công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình trong lĩnh vực tư pháp.

1. Trách nhiệm giải trình trong lĩnh vực tư pháp

Trong tổ chức và hoạt động của các nhà nước hiện đại trên thế giới, giải trình và trách nhiệm giải trình là những khái niệm tương đối phổ biến trong hoạt động của bộ máy nhà nước. Hoạt động giải trình của cơ quan nhà nước chủ yếu là các cơ quan hành pháp và hành chính nhà nước, gắn liền với yêu cầu công khai, minh bạch, bảo đảm tính pháp quyền trong hoạt động của bộ máy nhà nước; một hình thức của kiểm soát quyền lực. 

Theo quy định tại khoản 1, Điều 3 Nghị định số 90/2013/NĐ-CP ngày 08/8/2013 của Chính phủ quy định trách nhiệm giải trình của cơ qua nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao thì khái niệm giải trình được hiểu như sau: “Giải trình là việc cơ quan nhà nước cung cấp, giải thích, làm rõ các thông tin về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao và trách nhiệm của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đó”. Như vậy, theo cách hiểu thông thường, giải trình trước hết là giải thích, trình bày nhằm làm sáng rõ một vấn đề gì đó. Về thuật ngữ “giải trình” hay yêu cầu về tính giải trình còn được đề cập đến với tư cách là một yêu cầu quan trọng đối với việc thực hiện minh bạch, cụ thể là “nhằm bảo đảm việc cung cấp đủ bằng chứng, căn cứ mang tính khách quan để giải thích hay làm rõ về các nội dung hoặc vấn đề cần minh bạch” .

Khái niệm “trách nhiệm giải trình” du nhập vào Việt Nam không lâu, và thường được nhầm lẫn thành “tự chịu trách nhiệm”. Tự chịu trách nhiệm là nghĩa vụ đương nhiên của chủ thể quản lý, trên bất kỳ quốc gia nào, dưới bất kỳ chính thể nào, ở bất kỳ thời đại nào, bởi vì bất kỳ cơ quan, tổ chức nào với tư cách là một thực thể pháp lý, nó đương nhiên có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm về mọi quyết định và hành động của mình. Theo tác giả, trách nhiệm giải trình phải đi cùng với tự chủ, chứ không phải tự chịu trách nhiệm. Vấn đề là tự chủ phải được gắn với một cơ chế bảo đảm cho nó thực hiện.  Theo đó, trách nhiệm giải trình là trách nhiệm của cơ quan, của người đứng đầu cơ quan nhà nước báo cáo, trình bày trước dân hoặc trước cơ quan, tổ chức đại diện của dân về việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Đây cũng là một hoạt động thể hiện quyền giám sát của dân đối với hoạt động của cơ quan nhà nước, tránh được tình trạng khi có khuyết điểm, thiếu sót thường đùn đẩy, không rõ địa chỉ tổ chức hoặc cá nhân chịu trách nhiệm.

Như vậy, một cách ngắn gọn nhất, trách nhiệm giải trình là đảm bảo cho người dân, nhà nước và các tổ chức ngoài nhà nước có cả khung pháp lý lẫn khả năng buộc các cơ quan và cán bộ nhà nước phải giải trình về những gì họ làm hoặc không làm khi thực thi chức năng, nhiệm vụ của mình [1]. Như vậy, trách nhiệm giải trình là việc cơ quan nhà nước cung cấp, giải thích, làm rõ các thông tin về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao và chịu trách nhiệm của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đó [2]. Theo đó, trách nhiệm giải trình có thể được thực hiện bởi các cơ quan lập pháp, cơ quan hành chính, cơ quan tư pháp. Trong phạm vi của bài viết này, trách nhiệm giải trình được xem là việc các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền chủ động hoặc theo yêu cầu thực hiện cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời về quyền, nghĩa vụ, về quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao và trách nhiệm của mình đối với kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ đó trước người dân, xã hội và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong lĩnh vực tư pháp ở việt nam hiện nay, cụ thể xin được giới hạn trong phạm vi hoạt động thi hành án dân sự; công chứng; chứng thực; hộ tịch; quốc tịch; lý lịch tư pháp; giám định tư pháp; đăng ký giao dịch bảo đảm; hành nghề luật sư, tư vấn pháp luật; bán đấu giá tài sản; trọng tài thương mại; phổ biến, giáo dục pháp luật; trợ giúp pháp lý; cho, nhận, nuôi con nuôi; hợp tác quốc tế về pháp luật (sau đây gọi chung là lĩnh vực tư pháp).[3]

2. Quy định pháp luật về trách nhiệm giải trình trong lĩnh vực tư pháp

Về cơ sở pháp lý quy định về trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước, cần thiết khẳng định ý nghĩa to lớn của Hiến pháp 2013. Để triển khai thi hành Hiến pháp, cần thiết xây dựng, sửa đổi, bổ sung các luật có liên quan nhằm đảm bảo phù hợp với các quy định của Hiến pháp, trong đó có quy định về trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan hành chính nhà nước nói riêng. Hiến pháp 2013 tại Điều 77 cũng như một số điều, khoản liên quan khác như Điều 98, Điều 99 đã có quy định về trách nhiệm giải trình của các cơ quan, cá nhân công quyền, trong đó có các cơ quan hành chính nhà nước, làm cơ sở pháp lý để nhà nước tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật về trách nhiệm giải trình của các chủ thể quyền lực công trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN hiện nay. Trách nhiệm giải trình này quy định trong Hiến pháp là một loại trách nhiệm hiến định, theo đó, Hiến pháp 2013 quy định Thủ tướng có  nhiệm vụ “Thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân qua các phương tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền giải quyết của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ” [4]; Bộ trưởng vừa có trách nhiệm giải trình trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, vừa có trách nhiệm giải trình trước công chúng: “Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ báo cáo công tác trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; thực hiện chế độ báo cáo trước Nhân dân về những vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm quản lý”.[5]

Ngày 23/11/2012, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 4 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng chống tham nhũng [6]. Đạo luật này đã bổ sung Điều 32a vào Điều 32 trong Luật phòng chống tham nhũng nội dung như sau: “1. Khi có yêu cầu, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải giải trình về quyết định, hành vi của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao trước cơ quan, tổ chức,cá nhân có quyền, lợi ích hợp pháp bị tác động trực tiếp bởi quyết định, hành vi đó. 2. Chính phủ quy định chi tiết về trách nhiệm của cơ quan có nghĩa vụ giải trình; trình tự, thủ tục của việc giải trình”. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định cụ thể hơn về trách nhiệm giải trình như sau: Cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có trách nhiệm giải trình về quyết định, hành vi của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao khi có yêu cầu của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân bị tác động trực tiếp bởi quyết định, hành vi đó. Người thực hiện trách nhiệm giải trình là người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc người được phân công, người được ủy quyền hợp pháp để thực hiện trách nhiệm giải trình [7]. Theo đó, nội dung này được quy định chi tiết tại Chương II Nghị định số 59/2019/NĐ-CP ngày 01/7/2019 của Chính phủ.

Có thể nói, văn bản quy phạm đầu tiên có phạm vi điều chỉnh cụ thể và tương đối toàn diện về trách nhiệm giải trình là Nghị định số 90/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Theo quy định tại Nghị định này, giải trình được xác định ngắn gọn là “việc cơ quan nhà nước cung cấp, giải thích, làm rõ các thông tin về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao và trách nhiệm của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đó”. Tuy nhiên, văn bản này chỉ điều chỉnh trách nhiệm giải trình trong khuôn khổ chủ yếu là để thực hiện Luật phong, thực hiện hoạt động thanh tra; trách nhiệm giải trình được thực hiện một cách bị động (có yêu cầu giải trình). Trong khi đó, trên thực tế, theo quy định các cơ quan hành chính nhà nước còn có các hình thức thực hiện trách nhiệm giải trình khác như thực hiện báo cáo công tác định kỳ hoặc đột xuất cho cơ quan cấp trên; báo cáo, cung cấp thông tin phục vụ cho hoạt động kiểm tra của cấp trên; cung cấp thông tin, trả lời những khiếu nại, tố cáo của cá nhân, tổ chức; cung cấp thông tin cho công chúng, cho báo chí; trả lời chất vấn của các cơ quan và đại biểu cơ quan dân cử...

Nghị định số 90/2013/NĐ-CP có tác động mạnh mẽ lên thái độ, trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Đồng thời, Nghị định cũng sẽ trở thành công cụ pháp lý quan trọng để tăng cường sự giám sát của người dân đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước, là cơ sở để  có thẩm quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức nhằm nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ. Việc thực hiện trách nhiệm giải trình còn góp phần tăng cường sự đối thoại giữa người dân và cơ quan nhà nước. Các tổ chức và người dân có điều kiện tiếp cận dễ dàng với các thông tin, quyết định quản lý của các cơ quan nhà nước, qua đó việc thực hiện các quyết định này sẽ thuận lợi hơn. Bên cạnh đó, nếu thực hiện tốt trách nhiệm giải trình sẽ giảm một phần đáng kể các khiếu nại, khiếu kiện của người dân đến các cơ quan nhà nước. 

Trong lĩnh vực tư pháp - trách nhiệm giải trình cũng được quy định một cách rải rác trong một số văn bản quy phạm pháp luật về thi hành án dân sự; công chứng; chứng thực; hộ tịch; quốc tịch; lý lịch tư pháp; giám định tư pháp; đăng ký giao dịch bảo đảm; hành nghề luật sư, tư vấn pháp luật; bán đấu giá tài sản; trọng tài thương mại; phổ biến, giáo dục pháp luật; trợ giúp pháp lý; cho, nhận, nuôi con nuôi; hợp tác quốc tế về pháp luật. Cụ thể như sau:

- Đối với lĩnh vực thi hành án dân sự: Luật thi hành án dân sự năm 2008 có quy định cơ quan thi hành án dân sự “báo cáo công tác thi hành án dân sự trước Hội đồng nhân dân cùng cấp khi có yêu cầu” (khoản 7 Điều 14, khoản  7 Điều 16), Chính phủ có trách nhiệm “định kỳ hàng năm báo cáo Quốc hội về công tác thi hành án dân sự” (khoản 4 Điều 166), Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng “báo cáo Chính phủ về công tác thi hành án dân sự” (điểm l, khoản 1 Điều 167,  điểm c khoản 1 Điều 168); Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có quyền Yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh báo cáo, kiểm tra công tác thi hành án dân sự ở địa phương (khoản 5, khoản 6 Điều 173).

- Đối với lĩnh vực công chứng, chứng thực: Luật công chứng 1014 có quy định khá đầy đủ và cụ thể về nghĩa vụ giải thích của Công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng, cụ thể như sau: Công chứng viên có nghĩa vụ “giải thích cho người yêu cầu công chứng hiểu rõ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của họ, ý nghĩa và hậu quả pháp lý của việc công chứng; trường hợp từ chối yêu cầu công chứng thì phải giải thích rõ lý do cho người yêu cầu công chứng (Điểm d khoản 2 Điều 17), “giải thích cho người yêu cầu công chứng hiểu rõ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của họ, ý nghĩa và hậu quả pháp lý của việc tham gia hợp đồng, giao dịch” (khoản 4 Điều 43), “Khi công chứng các hợp đồng ủy quyền, công chứng viên có trách nhiệm kiểm tra kỹ hồ sơ, giải thích rõ quyền và nghĩa vụ của các bên và hậu quả pháp lý của việc ủy quyền đó cho các bên tham gia (khoản 1 Điều 55). Tổ chức hành nghề công chứng có trách nhiệm giải thích rõ cho người yêu cầu công chứng về thù lao công chứng (khoản 3 Điều 67). Điều 33 quy định tổ chức hành nghề công chứng có nghĩa vụ “Niêm yết lịch làm việc, thủ tục công chứng, nội quy tiếp người yêu cầu công chứng, phí công chứng, thù lao công chứng và chi phí khác tại trụ sở của tổ chức mình”(khoản 4), “Thực hiện yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc báo cáo, kiểm tra, thanh tra, cung cấp thông tin về hợp đồng, giao dịch, bản dịch đã công chứng” (khoản 8), Bộ Tư pháp có trách nhiệm “định kỳ hằng năm báo cáo Chính phủ về hoạt động công chứng” (điểm h khoản 2 Điều 69).

-  Đối với lĩnh vực hộ tịch; quốc tịch; lý lịch tư pháp; giám định tư pháp; đăng ký giao dịch bảo đảm; hành nghề luật sư, tư vấn pháp luật; bán đấu giá tài sản; trọng tài thương mại; phổ biến, giáo dục pháp luật; trợ giúp pháp lý; cho, nhận, nuôi con nuôi; hợp tác quốc tế về pháp luật: Điều 9 Luật lý lịch tư pháp quy định Bộ Tư pháp có trách nhiệm “định kỳ hằng năm báo cáo Chính phủ về hoạt động quản lý lý lịch tư pháp” (điểm k khoản 3), Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương “định kỳ hằng năm báo cáo Bộ Tư pháp về hoạt động quản lý lý lịch tư pháp tại địa phương” (điểm d khoản 5). Nghị định số 102/2017/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 2017 của Chính phủ về đăngk ý biện pháp bảo đảm  quy định Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm “tổng hợp và định kỳ hàng năm báo cáo Chính phủ về công tác đăng ký biện pháp bảo đảm trong phạm vi cả nước” (điểm e khoản 2 Điều 66).

Qua việc rà soát các quy định của pháp luật  trong lĩnh vực tư pháp, tác giả nhận thấy quy định về trách nhiệm giải trình của cơ quan, tổ chức có thể được khái quát lại cụ thể như sau:

- Về nội dung giải trình: Giải trình có thể là quyền hoặc là nghĩa vụ, trách nhiệm của một người; có thể thực hiện một cách chủ động, thường xuyên, định kỳ hoặc được thực hiện một cách bị động, theo yêu cầu của người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Nội dung giải trình là những nhiệm vụ, quyền hạn mà pháp luật quy định cho từng vị trí, chức danh cụ thể.

- Về hình thức giải trình: thực hiện thông qua các hình thức sau: (1) Một là, thực hiện báo cáo công tác định kỳ hoặc theo yêu cầu; (2) Hai là, cung cấp thông tin đầy đủ về một vấn đề hoặc một công việc nhất định đã thực hiện khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao cho cơ quan có thẩm quyền hoặc cho công chúng; trả lời kiến nghị của cử tri, của công dân đối với những công việc hoặc lĩnh vực mà theo quy định của pháp luật cử tri hoặc công dân có quyền kiến nghị yêu cầu được trả lời hoặc có quyền chất vấn; (3) Ba là, tham dự các cuộc họp trả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND, trả lời những câu hỏi do các đại biểu đặt ra để làm rõ những vấn đề có liên quan nhiệm vụ, quyền hạn được giao.  

- Về trình tự, thủ tục giải trình: giải trình khi có yêu cầu; việc yêu cầu giải trình được thực hiện bằng văn bản hoặc trình bày trực tiếp tại cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giải trình.

Một vài nhận xét, đánh giá quy định pháp luật về trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước

Qua việc phân tích một số quy định của Hiến pháp và quy định về trách nhiệm giải trình tại các văn bản có liên quan như đã nêu ở trên, có thể đưa ra một vài nhận xét, đánh giá như sau:

Về những kết quả đã đạt được: (1) về cơ bản trách nhiệm giải nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước đã được quy định trong hệ thống pháp luật Việt Nam, từ Hiến pháp đến một số luật chuyên ngành và một số văn bản dưới luật như Nghị định, Thông tư [8]; (2) đây là một bước ngoặt quan trọng nhằm đảm bảo tính minh bạch trong hoạt động quản lý nhà nước, giúp cho các chủ thể quản lý hành chính khi ban hành các quyết  định hành chính trong lĩnh vực tư pháp phải đảm bảo tính hợp pháp, tính hợp lý và tính khả thi đồng thời cũng là một biểu hiện của việc mở rộng quyền dân chủ của người dân; (3) đây cũng là hình thức nâng cao việc giáo dục pháp luật cho người dân nói chung, trong đó có cả các tổ chức, cá nhân vi phạm. Thông qua giải trình, có thể họ hiểu rõ pháp luật hơn, qua đó có thể hạn chế việc khiếu nại, giúp nhân dân hoặc người vi phạm hiểu rõ hơn về hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực tư pháp, từ đó có thái độ hợp tác đúng đắn; (4) việc quy định về trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước đã đóng góp quan trọng vào việc xây dựng và thực thi cơ chế bảo đảm và bảo vệ có hiệu quả các quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân khi tham gia vào các quan hệ pháp luật hành chính với nhà nước.

Về một số tồn tại, hạn chế: (1) việc quy định giải trình và tổ chức việc giải trình trong mối quan hệ với vấn đề “trách nhiệm giải trình” của các cơ quan hành chính nhà nước trong lĩnh vực tư pháp là chưa rõ ràng, đặc biệt liên quan đến trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng; (2) chưa chú trọng đến quy định về cơ chế cơ chế kiểm soát, xử lý vi phạm trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước; (3) chưa xác định rõ mối quan hệ giữa giải trình trong nội bộ với giải trình với công chúng đối với hoạt động của các cơ quan hành chính, nhất là trong thời đại phát triển công nghệ thông tin.

3. Thực tiễn thực thi trách nhiệm giải trình

Theo khảo sát về chỉ số PAPI với sự tham gia của 13.640 người dân mới được công bố, nhìn chung người dân có vẻ hài lòng với trải nghiệm của mình khi làm các thủ tục hành chính (đặc biệt là dịch vụ chứng thực, xác nhận, làm giấy phép xây dựng và các loại giấy tờ cá nhân khác), phương thức tiếp cận thông tin và thái độ ứng xử của cơ quan hành chính nhà nước, cán bộ, công chức trong mối quan hệ với người dân thông qua việc hướng dẫn, giải thích rõ ràng nội dung công việc. Nhiều người cho rằng, công chức thực hiện nhiệm vụ vừa thạo việc vừa có thái độ tôn trọng đối với dân. Đặc biệt là ở dịch vụ chứng thực, xác nhận, trung bình cứ 10 người dân thì 9 người bày tỏ hài lòng [9].

Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, như đảm bảo tính công khai, minh bạch trong hoạt động thuộc lĩnh vực tư pháp, tạo điều kiện cho người dân được tiếp cận thông tin cũng như chia sẻ những băn khoăn, thắc mắc của mình đối với hoạt động của các cơ quan công quyền, thông qua hoạt động giải trình của các cơ quan có thẩm quyền, người dân hiểu, tin hơn vào chế độ, chính sách, pháp luật của nhà nước, qua đó có thể giảm tải vụ việc khiếu kiện của người dân…, thì trong việc thực hiện trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước trong lĩnh vực tư  pháp thời gian qua còn có một số hạn chế, bất cập sau đây:

Một là, do pháp luật chưa có sự phân định rõ ràng về thẩm quyền lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng với thẩm quyền quản lý điều hành của các cơ quan nhà nước, điều này đã làm cho việc thực hiện trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước trong lĩnh vực tư  pháp trở nên không rõ ràng, khó xác định, gặp khó khăn, vướng mắc. 

Hai là, Do các luật chuyên ngành và các qui định của Chính phủ còn có sự nhầm lẫn về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Bộ với Bộ trưởng [10] do đó đôi khi làm lu mờ vai trò, trách nhiệm của Bộ trưởng, dẫn đến không đề cao được trách nhiệm giải trình của Bộ trưởng đối với ngành, lĩnh vực do mình quản lý.

Ba là, bộ máy hành chính còn mang nặng tính thứ bậc, quan liêu làm cho việc thực hiện trách nhiệm giải trình chưa kịp thời, còn phổ biến tình trạng đối phó, bị động khi phải thực hiện trách nhiệm giải trình.

Bốn là, trên thực tế, việc thực hiện giải trình trong nội bộ, của cấp dưới với cấp trên trong bộ máy hành chính còn mang tính hình thức; trong khi đó việc giải trình ra bên ngoài (liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân) còn chưa được chú trọng, chưa đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của nhân dân để từ đó, nhân dân có thể thực hiện tốt quyền giám sát, phản biện đối với cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện chức năng, thẩm quyền được giao.

Năm là, do chưa có quy định về cơ chế kiểm soát, xử lý đối với các cơ quan nhà nướcc vi phạm trách nhiệm giải trình, nên trong thực tế, khi có vi phạm về vấn đề này vẫn chưa có các biện pháp xử lý thích hợp.

4. Một số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước trong lĩnh vực tư pháp

Trên cơ sở phân tích các ưu và nhược điểm trong các quy định của pháp luật và thực tiễn thực thi trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước trong lĩnh vực tư pháp, xin đưa ra một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật về trách nhiệm giải trình trong lĩnh vực tư pháp cụ thể như sau:

*Dưới góc độ hoàn thiện pháp luật, cần chú trọng một số nội dung sau đây:

Một là, nghiên cứu và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước trong lĩnh vực tư pháp gắn với yêu cầu xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam hiện nay.

Nhằm hoàn thiện hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước trước hết cần phải tiến hành tổng kết, rà soát tất cả các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan đến trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nướcc khi thực hiện nhiệm vụ được giao. việc rà soát này cần đảm bảo đối chiếu với các quy định có liên quan trong hiến pháp 2013, kịp thời phát hiện những khiếm khuyết về mặt pháp luật có liên quan đến trách nhiệm giải nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nướcc, đặc biệt là cơ chế kiểm soát và xử lý đối với việc vi phạm trách nhiệm giải trình hoặc giải trình không hiệu quả hiện nay vẫn còn là một khoảng trống trong quy định pháp luật.

Hai là, phải đặt yêu cầu hoàn thiện pháp luật liên quan đến trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước trong mối quan hệ đảm bảo tính hợp hiến, thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật hiện hành, tránh việc đặt ra các quy định chồng chéo, mâu thuẫn, gây khó khăn cho chính các cơ quan hành chính nhà nước trong quá trình thực hiện cũng như cho người dân trong quá trình giám sát việc thực hiện trách nhiệm này thông qua các cơ quan đại diện của mình.

Ba là, phải đặt yêu cầu hoàn thiện pháp luật liên quan đến trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước hay quá trình nội luật hóa quy định trách nhiệm giải trình của cơ quan công quyền ở Việt nam phù hợp với luật pháp quốc tế, các quy định của điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

Bốn là, phải xác định rõ lộ trình, kế hoạch hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan đến trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước thuộc lĩnh vực tư pháp  trong việc tổ chức triển khai thực hiện các nghị quyết của đảng, nghị quyết của quốc hội, các văn bản chỉ đạo của hệ thống chính quyền các cấp.

Việc hoàn thiện hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước không thể tách rời với yêu cầu hoàn thiện về thể chế, tổ chức bộ máy, xác định đúng vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức trong việc thực thi có hiệu quả trách nhiệm giải trình của mình theo quy định của pháp luật.

Năm là, việc hoàn thiện hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước phải gắn với yêu cầu xây dựng một cơ chế hữu hiệu nhằm đảm bảo trách nhiệm giải trình thực sự có hiệu quả thông qua quá trình kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm minh tất cả các hành vi vi phạm trách nhiệm giải trình từ phía cơ quan công quyền.

Sáu là, trong quá trình ban hành văn bản cá biệt của các cơ quan hành chính nhà nướcc, trước hết phải bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch, dân chủ. yêu cầu này cũng là nhiệm vụ được thể hiện trong chiến lược quốc gia phòng chống tham nhũng đến năm 2020: “minh bạch hóa quá trình soạn thảo, trình, ban hành chính sách, pháp luật; quá trình chuẩn bị, trình, ban hành quyết định, văn bản hành chính gắn liền với việc cải cách thủ tục hành chính”.

* Dưới góc độ tổ chức thực hiện pháp luật:

Trước hết, cần nhận thức đúng bản chất cũng như thấy được ý nghĩa thực sự của việc thực hiện trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan hành chính nhà nước nói riêng. Đây là việc cơ quan nhà nướcc cung cấp, giải thích, làm rõ các thông tin về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao và trách nhiệm của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đó. trách nhiệm giải trình, vì thế, chính là một phương thức, một công cụ để minh bạch hóa các quyết định, hành vi quản lý, hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, qua đó, góp  phần phòng ngừa tham nhũng, quan liêu, lãng phí.

Về pháp lý, trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước thông thường chỉ đặt ra khi có yêu cầu của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền và lợi ích hợp pháp bị tác động trực tiếp bởi quyết định, hành vi hành chính. tuy nhiên, sâu xa hơn, trách nhiệm giải trình còn thể hiện thái độ phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, tinh thần “thân dân”, “gần dân” của nền hành chính nhà nước. do đó, việc giải đáp và làm cho các cơ quan, tổ chức và người dân, những đối tượng chịu sự tác động, hiểu, thông suốt hơn về những quyết định, hành vi quản lý cần phải được xem như một việc làm thường xuyên, một công việc có tính chủ động của các cơ quan hành chính nhà nướcc. làm được điều này, không chỉ góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, phòng chống tham nhũng, lãng phí mà còn nêu cao phẩm chất tốt đẹp của đội ngũ cán bộ, công chức chúng ta là luôn tôn trọng nhân dân, liên hệ và gắn bó mật thiết với nhân dân, thể hiện rõ bản chất của nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân.

Do đó, dưới góc độ tổ chức thực hiện pháp luật, cần chú trọng một số nội dung sau đây:

Một là, phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy của cơ quan hành chính nhà nước, trong đó đề cao trách nhiệm giải trình của cơ quan và cá nhân công quyền trong trường hợp khi có yêu cầu giải trình từ phía đối tượng quản lý hoặc chủ động thực hiện việc giải trình khi thực hiện các cơ quan này thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.

Hai là, phải nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước, coi trọng yếu tố con người trong hoạt động quản lý và coi đó là chìa khóa quyết định sự thành công của công cuộc cải cách hành chính, cải cách chế độ công vụ trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam hiện nay. Vấn đề cốt lõi trong thực hiện trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước đó là tính chịu trách nhiệm về những hậu quả xảy ra do quyết định, hành vi của mình. Vì vậy, nâng cao trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nướcc có nghĩa là người cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị phải thực hiện đúng tinh thần chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; nói đi đôi với làm, đã nói thì phải làm như các nghị quyết, chỉ thị của đảng đã nêu ra. phải phát huy tinh thần tự phê bình và phê bình, thẳng thắn nhìn nhận đúng sai lầm, khuyết điểm, dám và biết sửa chữa, khắc phục. có như vậy, việc thực hiện trách nhiệm giải trình này mới không mang tính hình thức mà phát huy được đầy đủ ý nghĩa thực sự của nó.

Ba là, phải phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh tất cả những trường hợp vi phạm các quy định của pháp luật có liên quan đến trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước; cần thiết phải có các biện pháp chế tài cụ thể nếu cơ quan hay cá nhân công quyền cố tình không thực thi trách nhiệm giải trình, gây khó dễ cho các tổ chức và cá nhân trong quá trình thực hiện hoạt động quản lý nhà nước.

Bốn là, phải đặt việc tổ chức thực hiện pháp luật về trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước ở việt nam như là một yêu cầu để Việt Nam tiến sâu vào quá trình hội nhập quốc tế.

Năm là, để hoàn thiện công tác tổ chức thực hiện pháp luật về trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước, cần thiết huy động sức mạnh của toàn thể cộng đồng xã hội, sự hỗ trợ của báo trí, truyền thông. cụ thể là, năng lực và vai trò báo chí, truyền thông của việt nam cần được xem như là một giám sát viên cần được tăng cường để phát hiện và thông tin tới độc giả

Có thể nói việc nâng cao trách nhiệm, tinh thần, thái độ phục vụ nói chung, trách nhiệm giải trình nói riêng của các cơ quan nhà nước cũng như của đội ngũ cán bộ, công chức là hết sức cần thiết trong tổng thể quá trình cải cách hành chính, cải cách chế độ công vụ, công chức, trong công tác đấu trang phòng chống tham nhũng, lãng phí hiện nay. việc thực hiện tốt trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nướcc cũng chính là nhằm tăng cường tính công khai, minh bạch, trách nhiệm của nền hành chính hiện đại, của hoạt động công vụ nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp của người dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam của dân, do dân và vì dân.

[1] Báo cáo chỉ số quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) năm 2011, tr. 32
[2] Vũ Công Giao, Nguyễn Hoàng Anh, Đặng Minh Tuấn, Nguyễn Minh Tuấn (Đồng chủ biên), (2017), Quản trị tốt lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 185.
[3] Theo quy định tại Điều 1 về phạm vi điều chỉnh của Nghị định Số: 60/2009/NĐ-CP  ngày 23 tháng 07 năm 2009 của  Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp thì “Nghị định này quy định các hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, mức phạt, thẩm quyền xử phạt, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự; công chứng; chứng thực; hộ tịch; quốc tịch; lý lịch tư pháp; giám định tư pháp; đăng ký giao dịch bảo đảm; hành nghề luật sư, tư vấn pháp luật; bán đấu giá tài sản; trọng tài thương mại; phổ biến, giáo dục pháp luật; trợ giúp pháp lý; cho, nhận, nuôi con nuôi; hợp tác quốc tế về pháp luật (sau đây gọi chung là lĩnh vực tư pháp)
[4] Xem Hiến pháp 2013, khoản 6 Điều 98
[5] Xem Hiến pháp 2013, Điều 99
[6] Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng chống tham nhũng
[7] Tại Khoản 1, Điều 15 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018
[8] Nghị định  số 90/2013/NĐ-CP,  Thông tư số 02/2014/TT-TTCP vv
[9] Đề tài khoa học cấp Bộ “Trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, trang 58
[10] Theo Quy chế làm việc của Chính phủ (ban hành kèm theo Nghị định số 179/2007/NĐ-CP trước đây cũng như theo Nghị định số 08/2012/NĐ-CP hiện nay) Thủ tướng có quyền “Trong trường hợp xét thấy cần thiết vì tính chất quan trọng, cấp bách của công việc, Thủ tướng  Chính phủ có thể trực tiếp chỉ đạo xử lý công việc thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tính” . Đây là một quy định chưa tuân thủ đầy đủ nguyên tắc phân định thẩm quyền và trách nhiệm trong hoạt động của bộ máy hành chính. Đây là một thực tế mà khi đánh giá về thực tiễn trách nhiệm giải trình, trả lời chất vấn hay thực hiện chế độ báo cáo trước Nhân dân của Bộ trưởng về những vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm quản lý còn gặp nhiều khó khăn.
*** Bài viết được đăng trong Kỷ yếu Hội thảo "Trách nhiệm giải trình trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính Nhà nước ở Việt Nam: Những vấn đề lý luận và thực tiễn" trong khuôn khổ đề tài KH cấp Quốc gia: Công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Mã số: KX.01.41/16-20
TS. Nguyễn Thị Bình
Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính, Bộ Tư pháp

Chia sẻ bài viết

Thong ke

Thông tin thời tiết

PGS.TS. Nguyễn Đức Bách

TS Nguyễn Trung Thành

ThS. Bùi Quang Đông

Tỉ giá hối đoái

Tỉ giá ngoại tệ

Hội nghị quy hoạch tỉnh Yên Bái giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn 2050

https://essi.org.vn/